Cảm nhận đoạn thơ, ta với mình, mình với ta suối Lê vơi đầy

 

Đề bài: Em hãy phân tích đoạn thơ: Ta với mình, mình với ta… Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Hướng dẫn

Mở bài: Giới thiệu về đoạn thơ “Ta với mình, mình với ta… Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…”

Cảm nhận đoạn thơ, ta với mình, mình với ta suối Lê vơi đầy

Tố Hữu đã dành hết tình cảm của mình lên bài thơ Việt Bắc, những xúc cảm sâu sắc về hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng, họ gắn bó, nghẹn ngào nơi chiến trường xa xăm, nơi vùng núi Việt Bắc, nhưng tâm hồn của họ vẫn mang những nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ của sự thủy chung son sắt, cả bài thơ là nỗi nhớ và tấm lòng son sắt của những người chiến sĩ cách mạng.

Thân bài: Phân tích đoạn thơ “Ta với mình, mình với ta… Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…”

Tấm lòng thủy chung son sắt thể hiện sâu sắc qua từng lời thơ của Tố Hữu với cách xây dựng hình tượng độc đáo, nỗi nhớ đang dần dâng trào trong từng lời thơ của tác giả, với biết bao nhiêu cảm xúc đó, nỗi nhớ dường như đang chế ngự toàn không gian trong tác phẩm. Tấm lòng của những người chiến sĩ trước sau như một, vẫn luôn giữ tấm lòng thủy chung, son sắt, mặn lòng trước khung cảm của quê hương vùng núi Việt Bắc, tấm lòng đó thể hiện qua tình nghĩa, những nỗi nhớ da diết về khung cảnh, quê hương nơi đây:

 

Xem thêm:  Phân tích Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên của Nguyễn Dữ lớp 10

 

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Ta với mình, mình với ta, ở đây nó như hòa chung để nói một chỉnh thể, chỉnh thể đó nghẹn ngào, có tấm lòng trước sau như một, tấm lòng son sắt, mình đi nhưng mình lại mình lại nhớ mình, nguồn có bao nhiêu nước thì bấy nhiêu tấm lòng thủy chung, của con người…. Nỗi nhớ đó thể hiện cảm xúc chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm, hình ảnh mang những cảm xúc, dâng trào, nỗi nhớ cho con người, người đọc như đang hình dung, tưởng tượng những cảm xúc, những nghĩa tình và kỉ niệm gắn bó với những gì đã xa xôi, nơi đây tất cả giờ chỉ là kỉ niệm.

Tác giả còn so sánh tấm lòng thủy chung đó như nước trong nguồn, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… tất cả đang dần hòa trộn trong tâm hồn của những người chiến sĩ, tình cảm, tấm lòng đó son sắt, to lớn, mang đậm trong tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng.

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Nỗi nhớ đó da diết được tác giả so sánh với nỗi nhớ người yêu, nó cồn cào, da diết, cháy bỏng trong tâm hồn của những người chiến sĩ, cảm xúc đó nghẹn ngào, mang đến cho người đọc biết bao nhiêu khát khao, cảm xúc trước nỗi nhớ, nghĩa tình, sâu lắng của những người chiến sĩ cách mạng, đang ngày đêm mong nhớ vùng đất mà từng gắn bó máu thịt, nơi nung nấu những tâm hồn cách mạng, thể hiện được tâm hồn của những người chiến sĩ, hết mình vì quê hương, hết mình vì sự nghiệp của đất nước:

 

Xem thêm:  Phân tích truyện ngắn “Bến quê” Nguyễn Minh Châu

Cảm nhận đoạn thơ, ta với mình, mình với ta suối Lê vơi đầy

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Nỗi nhớ đó thể hiện qua nhiều hình ảnh, dòng sông mang nặng nghĩa tình, biết bao nhiêu hình ảnh về quê hương, đất nước, sớm khuya bên bếp lửa, mong đợi người thương đi về, hình ảnh rừng lứa, bờ tre tất cả đang thể hiện những cảnh vật gần gũi của những người chiến sĩ cách mạng, một thời đã từng gắn bó toàn tâm, toàn lực của mình với vùng đất nơi đây, tất cả đang hòa chung vào tâm hồn, của những người chiến sĩ, của cách mạng, của những năm tháng đã qua.

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Những cảm xúc đó thể hiện cảm xúc dâng trào, với nỗi nhớ đó, sự ngọt bùi, đắng cay, cùng nhau chia sẻ, nhớ những năm tháng dày sương, gắn bó nơi máu thịt, biết bao đắng cay muôn phần đều có thể hoàn thành, nỗi nhớ về vùng đất quê hương, nơi ta đã từng gắn bó, thiết tha, cảm xúc về một miền nỗi nhớ quê hương, cảm xúc đang trào dâng trong tâm hồn của người lính.

Kết bài: Bài văn phân tích đoạn thơ “Ta với mình, mình với ta… Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…”

Đoạn thơ đã nói lên tấm lòng thủy chung, son sắt của những người lính cách mạng, luôn hết mình vì dân tộc, nỗi nhớ đang dâng trào trong từng khoảnh khắc, nỗi nhớ, trào dâng trong tâm hồn của những người lính.

 

Xem thêm:  Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

 

 

Cảm nhận đoạn thơ, ta với mình, mình với ta suối Lê vơi đầy

Phân tích tình cảm thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của người cán bộ về xuôi trong bài thơ Việt Bắc: “Ta với mình, mình với ta…. Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

Việt Bắc là khúc hát ân tình của nhân dân Việt Bắc và người cán bộ về xuôi. Lấy bối cảnh chính phủ kháng chiến rời căn cứ Việt Bắc trở về thủ đô Hà nội, nhà thơ Tố Hữu đã viết nên một bài thơ hết sức cảm động về tình cảm quân dân khăng khít. Cả người đi kẻ ở đều luyến lưu, bịn, rịn, không nỡ rời xa. Người ở lại gửi lời dặn dò mến thương. Người ra đi thầm hứa một lòng thủy chung với quá khứ nghĩa tình ấy. Tình cảm thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của người cán bộ về xuôi trước tấm chân tình của nhân dân Việt Bắc được thể hiện rõ ràng qua đoạn thơ:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
……………………….
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Nếu ở phần đầu bài thơ là lời của người ở lại gửi người cán bộ về xuôi hãy nhớ lấy, giữ lấy quá khứ nghĩa tình và tấm lòng chân thật, gắn bó, thủy chung của nhân dân Việt bắc thì đến đây, bài thơ biểu hiện tấm lòng của người ra đi một lòng son sắt:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Người kháng chiến đạp lại bằng một lời khẳng định tình cảm trước sau như một. Câu thơ “ta với mình, mình với ta” ngắt nhịp 3/3, “mình” và “ta” như hình ảnh phản chiếu của nha, luôn gắn bó thủy chung. Đại từ “mình” , “ta” hoán đổi vị trí cho nhau, khéo léo và tinh tế. “Mình” và “ta” có sự chuyển hóa, hai mà như một, trong ta có mình, trong mình có ta, thống nhất hào hợp.

Lời tâm tình của người ra đi:

“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình báy nhiêu”

Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình báy nhiêu” vừa là cấu trúc so sánh vừa là cấu trức tăng tiến như muốn nhân mạnh, khẳng định nghĩa tình của người ra đi với Việt Bắc vô cùng sâu nặng. Nguồn nước kia không bao giờ cạn thì nghĩa tình của người kháng chiến với Việt Bắc sẽ không bao giờ dứt.

Chỉ qua bốn câu thơ, người cán bộ cách mạng đã bày tỏ và khẳng định tình cảm của mình với với Việt Bắc. Đó là tình cảm thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ trước ân tình mà Việt Bắc dành cho cách mạng.

Tiếp tục mạch thơ, nhà thơ đã khắc hạo vẽ đẹp của thiên nhiên và con người ở mảnh đất Việt Bắc. Những hình ảnh hiện lên trong dòng hồi tưởng đều chứa đựng nỗi nhớ niềm thương tha thiết:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lữa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngoài Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Hình ảnh so sánh “nhớ gì như nhớ người yêu” diễn tả mức độ sau sắc mãnh liệt của nỗi nhớ. Bởi vì, không có nỗi nhớ nào sao sánh được với nỗi nhớ của những người đang yêu, như ca dao từng có câu;

“Đêm nay ngồi dưới ánh trăng
Thương cha nhớ, nhớ mẹ không bằng nhớ em”

Nỗi nhớ được thể hiện ở nhiều tầng bậc hết sức sinh động. Có khi nõi nhớ hiện hữu cùng bước đi thời gia: “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya”. Có khi nỗi nhớ trải ra khắp không gian: “bản khói cùng xương – bếp lữa- rừng nưa- bờ tre- ngoài Thia – sông Đáy- suối Lê…” . Từ nỗi nhỡ thiết tha ấy, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp êm đềm thơ mộng, con người cũng đáng mến, đáng yêu. Chỉ có những người gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có những cảm nhận sâu sắc và thấm thía về Việt Bắc đến như vậy.

Trong nỗi nhớ của người ra đi, những kỉ niệm tiếp tục được khơi gợi. Có lẽ hình ảnh sâu đậm trong nỗi nhớ vẫn là những con người trên mảnh đất này. Họ bình thường, giản dị mà anh hùng, thủy chung:

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đấp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Điệu con lên rẫy bẽ từng bấp ngô”.

Từ “những” gợi tả chi tiếc cụ thể, chân thực của cuộc  sống thời chống Pháp, Tố Hữu đã sáng tạo nên những hình ảnh thơ có sức khái quát hơn. Nhà thơ đưa người đọc trở về những ngày kháng chiến đầy gian khổ, thiếu thốn. Hiện thực đó chỉ càng làm ngời sáng tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ của quân và dân ta:

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bác cơm sẽ nước chăn sui đáp cùng”

Câu thơ gợi lại một thời quá khứ cơ cực gian nan mà thấm thiết ân tình giữa đồng bào Việt Bắc và cáng bộ kháng chiến. Họ sẵn sàng chia sẻ cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn sui để ấm lòng trong những ngày gian khó. Nghĩa tình cách mạng chân thành, cảm động ấy là nguồn sức mạng làm nên chiến thắng vĩ đại sau này. Đó cũng chính là vẻ đẹp của nhân dân ta, vốn có truyền thống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Trong ký ức của người ra đi vẫn luôn ghi nhớ một hình ảnh rất cảm động. Đó là hình ảnh của bà mẹ của quê hương Việt Bắc:

“Nhớ người mẹ nắng lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

Ý thơ gợi liên tưởng hình ảnh bà mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Măt trời của mẹ, em nằm trên lưng”

Tố Hữu là nhà thơ viết nhiều và viết hay về những bà mẹ Việt Nam. Người mẹ Việt Bắc không chỉ hiện là thân cho một miền quê mà còn ẩn dụ cho vẻ đẹp của dân tộc, của đất nước. Ở đây, hình ảnh người mẹ vất vả, lam lũ, tần tảo hiện lên như một biểu tượng đẹp cho tấm lòng yêu thương, đức hi sinh và đôi bàn tay lao động cần cù của nhân vật Việt Bắc. Họ đã góp phần không nhỏ vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

Nhớ về Việt Bắc người ra đi như được sống lại với những ngày tháng chiến đấu đầy gian nan, thử thách mà vẫn phơi phới niềm vui:

“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều”
Chày đêm nên cối đều đều suối xa….”

Đó là những lớp học xóa nạn mù chữ, mang ánh sáng văn hóa đến cho đồng bào Việt Bắc. Và hoạt động văn nghệ với “đồng khuya đuốc sáng” để liên hoan mừng tin thắng trận kháng chiến dù gian khổ nhưng quân và dân ta vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng. Trong nỗi nhớ da diết của người ra đi, cái âm thanh đọng lại chính là tiếng mõ rừng chiều và tiếng chày giã gạo bằng sức nước gợi lên cuộc sống bình dị và khung cảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc.

Đoạn thơ được viết bằng thể thơ lục bát truyền thống giàu nhạc,giọng điệu thơ tâm tình ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc. Từ xưng hô “mình ta”  thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa người cán bộ cách mạng và Việt Bắc. Tấm lòng thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của người cán bộ về xuôi trước tấm chân tình của nhân dân Việt Bắc được thể hiện thật cảm động qua nỗi nhớ miên man. Cội nguồn sau xa của tình cảm đó chính là tình cảm yêu qua hương đất nước, niềm tự hào về truyền thống ân nghĩa, đạo lý thủy chung của dân tộc Việt Nam.