Cồng chiêng trong 3 nền văn hóa ở vn năm 2024

Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là "tiếng nói" của con người và của thần linh theo quan niệm "vạn vật hữu linh".

Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng chiêng như là thứ để nối kết những con người trong cùng một cộng đồng.

Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có.

Cồng chiêng trong 3 nền văn hóa ở vn năm 2024

Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.

Ngày 25/11/2005, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã được UNESCO chính thức công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Cùng với các tỉnh Tây Nguyên, Gia Lai đã có nhiều chính sách cũng như các hoạt động thực tiễn nhằm bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng trong điều kiện mới.

Cồng chiêng trong 3 nền văn hóa ở vn năm 2024

Giờ đây, không gian văn hóa cồng chiêng không còn bó hẹp trong lễ nghi tâm linh và tín ngưỡng dân gian xưa, mà đã hiện diện khắp nơi, kể cả trên sân khấu hiện đại.

Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai, thống kê sơ bộ tại 1.192 làng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh hiện còn lưu giữ 5.655 bộ cồng chiêng (dân tộc J’Rai có 3.373 bộ; dân tộc Bahnar có 2.282 bộ) và 932 bộ cồng chiêng quý hiếm; toàn tỉnh có 900 nghệ nhân giỏi, hơn 60 nghệ nhân biết chỉnh chiêng và đã có 23 nghệ nhân được công nhận là Nghệ nhân Ưu tú. Có thể nói, đây là những “báu vật sống” đang đóng góp thầm lặng để bảo vệ, phát huy giá trị không gian văn hóa cồng chiêng.

Cồng chiêng trong 3 nền văn hóa ở vn năm 2024

Bên cạnh đó, nhiều năm qua tỉnh Gia Lai duy trì đều đặn các cuộc liên hoan cồng chiêng từ cơ sở đến cấp tỉnh (hai năm tổ chức một lần ở cấp xã và cấp huyện; bốn năm tổ chức một lần ở cấp tỉnh). Các cuộc liên hoan này đã thu hút được đông đảo các nghệ nhân và dân làng tham gia vào hoạt động trình diễn, thưởng thức, cổ vũ. Đó là những giải pháp hiệu quả nhằm duy trì việc giao lưu, truyền dạy cồng chiêng tại cộng đồng, kích thích khả năng sáng tạo, học hỏi của nghệ nhân và góp phần nâng cao nhận thức của người dân bản địa trong việc bảo tồn giá trị văn hóa cồng chiêng của cha ông.

Đáng chú ý là ngoài những đội chiêng truyền thống, đội chiêng thiếu nhi, hiện đã xuất hiện khá nhiều đội chiêng nữ, phá vỡ quan niệm lâu đời về vai trò của nữ giới đối với cồng chiêng. Những chủ nhân di sản đã và đang viết tiếp một chương mới cho câu chuyện bảo tồn di sản cồng chiêng trong đời sống đương đại.

Cồng chiêng trong 3 nền văn hóa ở vn năm 2024

Việc bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng trong bối cảnh đương đại là nhiệm vụ nặng nề, phức tạp và cấp bách. Tại hội thảo quốc tế với chủ đề Sự thay đổi đời sống kinh tế - xã hội và bảo tồn văn hóa cồng chiêng ở Việt Nam và khu vực Đông - Nam Á (năm 2009) và gần đây nhất là hội thảo Bảo vệ và phát huy giá trị không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (năm 2018) được tổ chức tại TP.Pleiku (Gia Lai), đã đưa ra nhiều giải pháp giá trị thiết thực.

Cồng chiêng trong 3 nền văn hóa ở vn năm 2024

Có như vậy người dâ mới hào hứng tham gia giữ gìn, bảo vệ, phát huy một cách tự nguyện.

Những năm gần đây, Gia Lai đã chú trọng khai thác các yếu tố của không gian văn hóa cồng chiêng để phát triển du lịch, kết hợp lễ hội với yếu tố di sản thiên nhiên, xây dựng các tour du lịch cộng đồng. Đây là hướng đi mới mẻ, giúp cộng đồng bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch dịch vụ, xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững.

Từ kinh nghiệm triển khai các mô hình du lịch dựa vào di sản hiện nay, có thể nói Gia Lai đang có những bước đi đúng hướng, góp phần cùng với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong việc bảo tồn, phát huy giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa quý giá và đặc sắc này là 17 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á (Austro-Asian) và Nam đảo (Austronesian) sống trên khu vực cao nguyên trung bộ của Việt Nam.

Các cộng đồng cư dân nơi đây chủ yếu sống bằng canh tác nông nghiệp truyền thống. Họ đã phát triển nhiều loại hình nghề thủ công, sáng tạo ra nhiều phong cách trang trí và các kiểu nhà ở truyền thống độc đáo của mình.

Tín ngưỡng chủ đạo của cư dân nơi đây xuất phát từ tục thờ cúng tổ tiên, shaman giáo và thờ cúng vật linh. Gắn bó mật thiết với cuộc sống hằng ngày của cư dân và chu kỳ các mùa trong năm, những tín ngưỡng này hình thành nên một thế giới thần bí, nơi mà những chiếc cồng chiêng là chiếc cầu nối thông linh giữa con người, thần linh và thế giới siêu nhiên. Chứa đựng bên trong mỗi chiếc chiêng, chiếc cồng là một vị thần. "Cồng chiêng càng già thì thần linh càng mạnh và càng thiêng"*. Hầu như nhà nào cũng có cồng chiêng, thậm chí có gia đình có tới vài bộ. Điều này thể hiện sự giàu có và quyền thế, đồng thời cũng là vật che chắn, bảo vệ cho gia đình.

Bao ngàn đời nay, cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả, v.v. cho đến lễ cúng máng nước, mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà rông mới, v.v.

Có giả thuyết cho rằng văn hóa cồng chiêng bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn, là nền văn hóa đồng thau xuất hiện tại Đông Nam Á. Cồng chiêng của Việt Nam rất đặc trưng so với cồng chiêng ở những khu vực khác do tính cộng đồng rất cao. Điều này thể hiện ở việc mỗi nhạc công đánh một chiếc. Từng thành viên trong dàn nhạc nhớ rõ từng tiết tấu của từng bài chiêng trong mỗi nghi lễ và kết hợp hài hòa với các nhạc công khác cùng chơi. Tùy theo từng nhóm dân tộc, cồng chiêng được đánh bằng dùi hoặc bằng tay; mỗi dàn cồng chiêng có khoảng từ 2 đến 13 chiếc có đường kính dao động từ 25 đến 120 cm.

Xưa nay, người Tây Nguyên không tự chế tác mà mua cồng chiêng của người Kinh từ các vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, dân tộc Lào hoặc Campuchia, rồi về nắn chỉnh lại để có được âm thanh mong muốn. Mỗi một làng bản đều có một người chuyên lên chiêng (hay còn gọi là người chỉnh chiêng).

Các quá trình chuyển biến về kinh tế, xã hội và tín ngưỡng đã và đang làm thay đổi mạnh mẽ cuộc sống của các cộng đồng nơi đây. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã trở thành một Kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của Nhân loại, bên cạnh niềm tự hào là một trách nhiệm hết sức nặng nề và to lớn. Cồng chiêng vốn là tài sản vô giá, được các cộng đồng dân tộc Tây Nguyên sáng tạo và không ngừng phát huy, trao truyền lại bao đời nay. Chính vì vậy, đối mặt với những thử thách đó, Bộ Văn hóa - Thông tin đang chỉ đạo các cơ quan chức năng cùng với cộng đồng có những hành động cụ thể nhằm khôi phục các giá trị truyền thống, trả lại cho cồng chiêng linh hồn và cuộc sống đích thực của nó.