Mỹ đã đưa ra học thuyết Monroe với nội dung cơ bản là
Khu vực Mĩ Latinh bao gồm những vùng nào của châu Mĩ? Show Tại sao lại gọi là khu vực Mĩ Latinh? Mĩ đưa ra và thực hiện học thuyết Mơn - rô (1823) nhằm mục đích gì? Chính sách “Cái gậy lớn” và “Ngoại giao đồng đôla” của Mĩ thực chất là
16/07/2020 12,338
A. Ngăn chặn các nước châu Âu tái thiết lập thuộc địa ở châu Mĩ để Mĩ có thể độc chiếm khu vực này Đáp án chính xác
B. Tiếp tục bành trướng ở khu vực Mĩ Latinh
C. Đoàn kết với các nước châu Mĩ để cùng phát triển
D. Lấy danh nghĩa đoàn kết với các nước châu Mĩ nhằm biến khu vực Mĩ Latinh thành “sân sau” của đế quốc Mĩ Câu hỏi trong đề: Các nước Mĩ Latinh (thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX) !!
Học thuyết Mơn-rô với khẩu hiệu “châu Mĩ của người châu Mĩ” được đề ra trong bối cảnh Liên minh thần thánh gồm Nga, Áo, Phổ tuyên bố ý định muốn khôi phục các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha ở châu Mĩ. Do đó học thuyết Mơn-rô thực chất là một biện pháp để ngăn chặn ảnh hưởng của các nước châu Âu vào khu vực, biến Mỹ thành “người bảo trợ” duy nhất cho an ninh và sự ổn định của khu vực Tây bán cầu Đáp án cần chọn là: A CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Đáp án là B Giải thích: Mục…2….Trang…30…..SGK Lịch sử 11 cơ bản CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu hỏi: Nội dung chính của học thuyết Monroe Mỹ đối với Mỹ latinh là gì? A. "Cái gậy lớn". B. "Châu Mĩ của người Mĩ". C. "Châu Mĩ của người châu Mĩ". D. "Người Mĩ thống trị châu Mĩ". Trả lời: Đáp án đúng:C. "Châu Mĩ của người châu Mĩ". Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về Học thuyết Monroe nhé! 1. Học thuyết Monroe là gì?Học thuyết Monroe là tuyên bố củaTổng thống James Monroe, vào tháng 12 năm 1823, rằng Hoa Kỳ sẽ không dung thứ cho một quốc gia châu Âu thuộc địa của một quốc gia độc lậpở Bắc hoặc Nam Mỹ.Hoa Kỳ cảnh báo họ sẽ coi bất kỳ sự can thiệp nào như vậyở Tây Bán cầu là một hành động thù địch. Tuyên bố của Monroe,được thể hiện trong bài phát biểu hàng năm củaông trước Quốc hội (tươngđương với Diễn vănNhà nước Liên minhthế kỷ 19), được thúcđẩy bởi lo ngại rằng Tây Ban Nha sẽ cố gắng tiếp quản các thuộcđịa cũ của họở Nam Mỹ, nơiđã tuyên bốđộc lập của họ. Trong khi Học thuyết Monroe hướngđến một vấnđề cụ thể và kịp thời, bản chất sâu rộng của nóđảm bảo nó sẽ gây ra những hậu quả lâu dài.Thật vậy, trong suốt nhiều thập kỷ, nóđã từ một tuyên bố tươngđối mù mờ trở thành nền tảng trong chính sáchđối ngoại của Mỹ. Mặc dù tuyên bố sẽ mang tên Tổng thống Monroe, nhưng tác giả của Học thuyết Monroe thực sự làJohn Quincy Adams, một tổng thống tương laiđang giữ chức ngoại trưởng của Monroe.Và chính Adams đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ để học thuyếtđược công khai. 2. Tại sao Học thuyết Monroe lại quan trọng?Mặc dù ban đầu bị các cường quốc châu Âu coi thường, nhưng Học thuyết Monroe đã trở thành trụ cột trongchính sách đối ngoạicủa Hoa Kỳ.Năm 1823, Tổng thống Hoa KỳJames Monroetuyên bố là người bảo hộ của Hoa Kỳ ở Tây Bán cầu bằng cách cấm các cường quốc châu Âuchiếm đóngthêm các vùng lãnh thổ ở châu Mỹ.Đổi lại, Monroe cam kết không can thiệp vào công việc, xung đột và các doanh nghiệp thuộc địa còn tồn tại của các quốc gia châu Âu.Mặc dù ban đầu là một cách tiếp cận không thuận tiện đối với chính sách đối ngoại, nhưng Học thuyết Monroe — vàHệ quả Roosevelt1904, bổ sung cho nó — đã đặt nền móng cho các thực hành theo chủ nghĩa can thiệp và bành trướng của Hoa Kỳ trong những thập kỷ tới. Chân dung Tổng thống Hoa Kì James Monroe3. Lý do cho Học thuyết Monroe- TrongChiến tranh năm 1812, Hoa Kỳ đã tái khẳng định nền độc lập của mình.Và khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1815, chỉ có hai quốc gia độc lậpở Tây Bán cầu, Hoa Kỳ và Haiti, một thuộc địa cũ của Pháp. - Tình hình đó đã thay đổiđáng kể vàođầu những năm 1820.Các thuộcđịa của Tây Ban Nhaở Mỹ Latinh bắtđầu chiếnđấu giànhđộc lập của họ, vàđế chế Mỹ của Tây Ban Nha về cơ bản sụpđổ. - Các nhà lãnh đạo chính trịở Hoa Kỳ nói chung hoan nghênh nềnđộc lập củacác quốc gia mớiở Nam Mỹ.Nhưng có một sự hoài nghiđáng kể rằng các quốc gia mới sẽ vẫnđộc lập và trở thành các nền dân chủ như Hoa Kỳ. - John Quincy Adams, một nhà ngoại giao có kinh nghiệm và con trai của chủ tịch thứ hai,John Adams, được phục vụ như của Tổng thống MonroeBộ trưởng Ngoại giao.Và Adams không muốn tham gia quá nhiều vào các quốc gia mớiđộc lập trong khiôngđangđàm phánHiệpước Adams-Onisđể giànhđược Florida từ Tây Ban Nha. - Một cuộc khủng hoảng phát triển vào năm 1823 khi Pháp xâm lược Tây Ban Nhađểủng hộ Vua Ferdinand VII, ngườiđã bị buộc phải chấp nhận một hiến pháp tự do.Nhiều người tin rằng Pháp cũngđang cóýđịnh hỗ trợ Tây Ban Nha trong việc chiếm lại các thuộcđịa của mìnhở Nam Mỹ. - Chính phủ Anh tỏ ra hoảng hốt trướcý tưởng Pháp và Tây Ban Nha hợp lực.Và văn phòng đối ngoại của Anhđã hỏiđại sứ Mỹ rằng chính phủ củaông dựđịnh làm gìđể ngăn chặn bất kỳ hànhđộng vượt mặt nào của Pháp và Tây Ban Nha của Mỹ. 4. Động cơ nào sau học thuyếtHọc thuyết Monroe được soạn thảo vì chính phủ Hoa Kỳ lo ngại rằng các cường quốc châu Âu sẽ xâmphạm phạm vi ảnh hưởng củaHoa Kỳbằng cách cắt bỏcáclãnh thổthuộc địaở châu Mỹ.Chính phủ Hoa Kỳ đặc biệt cảnh giác với Nga, vì mục tiêu mở rộng ảnh hưởng của mình sang Lãnh thổ Oregon, và Tây Ban Nha và Pháp, vì những kế hoạch tiềm năng của họ nhằm tái lập các lãnh thổ Mỹ Latinh gần đây đã giành được độc lập.Mặc dù người Anh thúc giục Mỹ đưa ra tuyên bố chung với họ, nhưng cuối cùng Mỹ đã chọn một tuyên bố đơn phương để tránh mọi cản trở đối với các thiết kế theo chủ nghĩa bành trướng của mình. 5. Di sản của Học thuyết Monroe- Sau phảnứng ban đầu đối với thông điệp của Monroe gửi đến Quốc hội, Học thuyết Monroe về cơ bản đã bị lãng quên trong một số năm.Không có sự can thiệp nào vào Nam Mỹ của các cường quốc châu Âu từng xảy ra.Và, trên thực tế, mối đe dọa của Hải quân Hoàng gia Anh có lẽ đã làm được nhiều điều để đảm bảo điều đó hơn là tuyên bố về chính sách đối ngoại của Monroe. - Tuy nhiên, nhiều thập kỷ sau, vào tháng 12 năm 1845,Tổng thống James K. Polkđã khẳngđịnh Học thuyết Monroe trong thôngđiệp hàng năm củaông trước Quốc hội.Polk gợi lên học thuyết như một thành phần củaĐịnh mệnh Tuyên bốvà mong muốn của Hoa Kỳ mở rộng từ bờ biển này sang bờ biển khác. - Vào nửa sau của thế kỷ 19 và sang cả thế kỷ 20, Học thuyết Monroe cũngđược các nhà lãnhđạo chính trị Mỹ trích dẫn như một biểu hiện của sự thống trị của Mỹở Tây Bán cầu.Chiến lược của John Quincy Adams về việc tạo ra một tuyên bố sẽ gửi một thôngđiệpđến toàn thế giớiđãđược chứng minh là có hiệu quả trong nhiều thập kỷ. Học thuyết Monroe là một chính sách của Hoa Kỳ được trình bày vào ngày 2, tháng 12 năm 1823 bởi tổng thống Mỹ James Monroe trước quốc hội. Theo đó những nỗ lực trong tương lai của các nước Âu châu để lập thuộc địa hay can thiệp vào nội bộ của các nước ở Bắc hay Nam Mỹ sẽ bị xem là những hành động xâm lược, và như vậy đòi hỏi sự can thiệp của nước Hoa kỳ.[1] Học thuyết này cũng chú giải là Hoa kỳ không những sẽ không can thiệp vào những thuộc địa hiện thời của các nước Âu châu mà cũng sẽ không xía vào nội bộ các nước Âu châu. Học thuyết này được đưa ra vào lúc hầu hết các thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tại châu Mỹ Latin đã giành được độc lập ngoại trừ Cuba và Puerto Rico. Hoa kỳ, với sự đồng ý của Vương quốc Anh, muốn bảo đảm là sẽ không có cường quốc Âu châu nào can thiệp vào các vấn đề Mỹ châu.[2]
Dự định và tác động của học thuyết này kéo dài hơn 100 năm với vài sự thay đổi nhỏ. Mục đích nguyên thủy của nó là để cho các quốc gia châu Mỹ Latin mới giành được độc lập
không bị can thiệp bởi các nước Âu châu, tránh tình trạng Mỹ châu trở thành chiến trường của các cường quốc Âu châu.
1848 dưới thời tổng thống James K. Polk và 1870 dưới thời tổng thống Ulysses S. Grant học thuyết này mở rộng thêm việc cấm chuyển nhượng thuộc địa cho một cường quốc khác. Tổng thống Hoa kỳ James Monroe Bộ trưởng ngoại giao John Quincy Adams, Tác giả của Học thuyết Monroe Thời kỳ tổng thống Monroe từ năm 1817 cho tới 1825 là lúc nước Mỹ trong nội bộ đã ổn định và nền kinh tế phát triển mạnh.
Chỉ vài năm trước đó khi nước Hoa kỳ thêm được vùng thuộc địa Louisiana của Pháp vào năm (1803) và vùng Florida của Tây Ban Nha năm (1819) lãnh thổ mở rộng hầu như gần gấp đôi, trong trường hợp đầu tiên chính Monroe là người điều đình tại Paris. Về mặt khác chính Hoa Kỳ cũng đã gây chiến với Vương quốc Anh (1812 – 1814), trong đó thủ đô Washington, D. C. bị đốt cháy và dự định chiếm đóng Canada của Hoa Kỳ đã thất bại. Đặc biệt Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ bị áp lực lớn: Các nền quân chủ chuyên chế Âu châu sau những cuộc xáo động trong những thập niên vừa qua (kể từ cách mạng Pháp năm 1789) đã giành lại quyền lực. Với sự khôi phục nền quân chủ Bourbon ở Pháp và những hành động của Liên minh Thần thánh (Holy Alliance: bao gồm Nga, Áo, Phổ) chống lại những tư tưởng và cơ sở Cộng hòa và cấp tiến khiến cho phong trào Cộng hòa trên thế giới bị đẩy lùi trở lại. Bởi vì Hoa Kỳ thiếu lực lượng quân đội và hải quân đáng gờm vào lúc đó, học thuyết đã bị quốc tế coi thường.[4] Học thuyết này, tuy nhiên, được vương quốc Anh chấp thuận ngầm, và hải quân hoàng gia Anh đã làm cho nó có hiệu lực, như là một phần của Pax Britannica, mà bắt tôn trọng sự trung lập ở biển cả. Học thuyết này đi cùng với sự phát triển của chính sách Anh tự do kinh tế đối ngược với chủ nghĩa trọng thương. Cách mạng kỹ nghệ ở Anh tìm kiếm các nơi để có thể bán được hàng sản xuất, và nếu các quốc gia châu Mỹ Latin mới giành được độc lập lại trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha một lần nữa, các cửa mở cho nước Anh vào các thị trường những nước này sẽ lại bị chính sách chủ nghĩa trọng thương của Tây Ban Nha đóng lại.[5]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Học_thuyết_Monroe&oldid=68404641” |