Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Rất khó để xác định chính xác thời điểm nhà Hán bắt đầu suy vong và sụp đổ là lúc nào. Triều Hán bắt đầu từ năm 206 TCN với một gián đoạn ngắn vào năm 9 khi bị nhiếp chính Vương Mãng lật đổ, lập nên nhà Tân. Do vậy, các sử gia thường gọi giai đoạn từ năm 206 TCN đến năm 9 là của nhà Tây Hán, và từ năm 25, khi Hán Thất khởi nghĩa lập lại nhà Hán, đến năm 220 khi Tam Quốc được thành lập, là giai đoạn của nhà Đông Hán.

Câu chuyện bắt đầu vào năm 144, khi Hoàng đế thứ 8 của nhà Đông Hán, Hán Thuận Đế Lưu Bảo bất ngờ băng hà, ngôi vị truyền cho người con trai chưa đầy 1 tuổi là Lưu Bỉnh. Hơn nữa, Lưu Bỉnh chỉ là con riêng của Lưu Bảo với một phi tần, chứ không phải của Hoàng hậu Lương Nạp, nay đã trở thành Hoàng Thái hậu và nhiếp chính cho triều đình.

Trợ giúp bà là anh trai Lương Ký, một tướng quân trong triều. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau Hán Xung Đế Lưu Bỉnh cũng băng hà vào năm 145.

Cái chết của Lưu Bỉnh để lại một khoản trống trên ngai vàng, khi ông là người cuối cùng thuộc dòng dõi hoàng tộc chính thống. Khi các đại thần trong triều đang tìm xem ai sẽ là người kế vị, họ được Lương Hoàng thái hậu, người đã chuẩn bị kỹ càng phòng khi Lưu Bỉnh không thể sống sót qua mùa đồng khắc nghiệt, gợi ý đến Lưu Toản.

Lưu Toản được chọn bởi vì 1) cha ông là Bột Hải Hiếu vương Lưu Hồng, người gần với dòng dõi chính thống nhất và 2) Lưu Toản lúc đó chỉ mới 8 tuổi nên Hoàng thái hậu nghĩ Hoàng đế mới sẽ dễ bề kiểm soát, trong khi bà và Lương Ký sẽ tiếp tục cai trị nhân danh nhiếp chính.

Tuy nhiên, khi Hán Chất Đế Lưu Toản đăng cơ, thì mọi chuyện không được như ý. Lưu Toản còn nhỏ nhưng rất thông minh, nhanh chóng hiểu chính sự và biết được sự chuyên quyền của Lương Ký, ông đã chửi thẳng mặt Lương Ký trước mặt quần thần là “một ông tướng ngang ngược.”

Việc này khiến Lương Ký tức giận, ông nhanh chóng mua chuộc một hoạn quan để đầu độc vào sữa của Hoàng đế, kết quả là Chất Đế băng hà vào năm 146. Nhưng do chất độc mất khá lâu để gây tác dụng. Lưu Toản đã có thời gian gọi một đại thần mà ông tin tưởng là Lý Cố và nói rằng ông nghi ngờ Lương Ký đứng đằng sau việc này. Nhưng do không có bằng chứng xác thực, Lý Cố cũng không thể đứng ra chống Lương Ký được và các đại thần phải tiếp tục tìm Hoàng đế mới.

Tuy anh trai Lương Ký lộng hành, nhưng Hoàng Thái hậu Lương Nạp lại không hay biết do cả năm bận tổ chức lễ cưới cho em gái là Lương Nữ Oánh và Ngô Lễ hầu Lưu Chí. Lưu Chí thật chất là cũng một người thuộc dòng dõi hoàng tộc, nhưng phụ thân ông do chọc giận tiên Đế nên bị giáng tước từ vương xuống hầu.

Và theo lệ thì lễ cưới phải được tổ chức tại nhà chồng, nhưng do Lưu Chí cưới em gái của 2 nhiếp chính quyền lực nhất Trung Hoa, nên ông phải đi từ Ngô Lễ đến kinh thành Lạc Dương để dự lễ cưới. Điều mà ông chắc chắn không ngờ được, là ông sắp trở thành Hoàng đế thứ 3 trong vòng 4 năm liên tục.

Do Thái hậu Lương Nạp cho rằng nếu đưa Lưu Chí lên làm Hoàng đế, thì em gái mình sẽ trở thành Hoàng hậu, giúp củng cố quyền lực cho Lương gia trong nhiều đời nữa. Và thêm một điều nữa là Lưu Chí lúc đó đã 15 tuổi, nghĩa là ông đã đủ thông minh để biết rằng không nên chửi nhiếp chính Lương Ký trước mặt bá quan văn võ như Chất Đế 8 tuổi đã làm.

Nhưng khi Lưu Chí đến kinh thành Lạc Dương thì lại bị một số đại thần như Lý Cố phản đối, nghi ngờ ông có dính líu tới cái chết của Chất Đế Lưu Toản. Họ đòi đưa cháu 4 đời của Chương Đế là Hạc Khánh vương Lưu Toán lên ngôi. Do Lưu Toán không chỉ lớn hơn, nên có thể dễ dàng quản lý đất nước hơn, mà còn gần với dòng dõi hoàng tộc hơn Lưu Chí.

Sau khi cả hai phe tranh luận cả một ngày trời về việc ai sẽ nối ngôi, vẫn không có quyết định nào được đưa ra nên mọi người quyết định bãi triều và để cuộc tranh luận ngày hôm sau quyết định.Tối hôm đó, khi Lương Ký đang suy nghĩ cách để chiến thắng vào ngày mai, ông được người bạn cũ của mình là Tào Đằng, tổ phụ nuôi của Tào Tháo, và là một hoạn quan đầy quyền lực.

Lương Ký ngay lập tức hiểu rõ là chuyến thăm của Tào Đằng là đại diện cho sự ủng hộ của phe hoạn quan, do đó ông hỏi Tào Đằng rằng ông sẽ ủng hộ ai trong số 2 người. Tào Đằng chỉ đơn giản trả lời rằng Hạc Khánh vương Lưu Toán là một vị quân vương trong sạch, không tham nhũng, người sẽ rất khó kiểm soát nếu trở thành Hoàng đế.

Thật tế là lúc Lưu Toán được triệu đến kinh thành Lạc Dương, Tào Đằng cũng đã bỏ công đến thăm Lưu Toán tương tự như lúc ông đến thăm Lương Ký, để tỏ lòng ủng hộ của phe hoạn quan, vì ông sau này cũng có thể trở thành Hoàng Đế. Nhưng Lưu Toán không những không tham nhũng, mà còn có phần hơi tự cao, coi hoạn quan chỉ là những tên người hầu cho mình, nên không để ý đến Tào Đằng, mà không nhận ra rằng hiện tại hoạn quan đã quyền lực như thế nào.

Kết quả của cuộc gặp đó là Tào Đằng quyết định chuyển sang ủng hộ cho Lương Ký lập Lưu Chí lên ngôi.Ngày hôm sau, Lương Ký biết rằng ông đã có được sự ủng hộ của phe hoạn quan, nên không tranh luận với Lý Cố nữa mà đưa quân đội vào và tuyên bố lập Lưu Chí làm Hoàng đế.

Đại thần Lý Cố không cam tâm, nên viết thư cho văn võ bá quan đòi lập Lưu Toán lên ngôi. Nhưng việc này chỉ làm Lương Ký tức giận hơn và dùng danh nghĩa Hoàng thái hậu của em mình đuổi Lý Cố về quê. Trong vòng 1 năm sau đó, bất cứ ai ủng hộ cho Lưu Toán đều Lương Ký bị xử trảm, khiến cho Lưu Toán hối hận tự sát.Vậy là năm 146, Hán Hoàn Đế Lưu Chí lên ngôi, trở thành Hoàng đế thứ 11 của triều Đông Hán.

Chỉ một lễ cưới đơn thuần ở kinh thành nay đã trở thành một đại lễ đăng cơ. Tuy nhanh chóng lên làm Đế là vậy, ông biết rõ thực quyền hiện đã rơi vào tay Lương gia, khi Lương Ký tự phong mình làm Đại tướng quân và tuyên bố mình có quyền chỉ định các chức quan trong triều. Ô

ng nhanh chóng thay thế những đưa những người trong gia tộc và những người trung thành với mình lên làm oan. Trong vòng 13 năm tới, Lưu Chí không có thực quyền gì và phải trở bù nhìn cho Lương gia.

Với Đại tướng quân Lương Ký kiểm soát đất nước, Hoàng thái hậu Lương Nạp kiểm soát cung điện, và Hoàng hậu Lương Nữ Oánh kiểm soát cả nhà mình.Chúng ta đã biết Hán Hoàn Đế Lưu Chí đăng cơ trở thành Hoàng đế thứ 11 của nhà Đông Hán. Nhưng dù ông lên ngôi nhanh như vậy, thực quyền hiện giờ lại hoàn toàn thuộc về Lương gia, bao gồm Đại tướng quân Lương Ký, em gái ông Hoàng thái hậu Lương Nạp, người vẫn còn là nhiếp chính cho Hoàng đế, và em út Hoàng hậu Lương Nữ Oánh.

Trong số 3 người này, Lương Ký giữ nhiều quyền lực nhất, khi ông tự phong mình là Đại tướng quân, trở thành vị tướng có chức cao nhất trong triều. Thêm nữa, Lương Ký còn có quyền chỉ định tất cả chức quan trong triều, và ông lạm quyền ngay lập tức, khi phong 2 em trai và con mình lên tước công.

Và trong nhiều năm, Lương Ký đưa tất cả những người trung thành với mình lên nắm giữ các chức vị quan trọng, gây rối loạn hết cả triều đình.Tất nhiên là không phải ai cũng ủng hộ Lương Ký và sự lộng quyền của ông, và có những người sẵn sàng đứng ra phản đối.

Nhưng Lương Ký là người tàn bạo và ngang ngược, ông cai trị thông qua sợ hãi. Và để biết Lương Ký là người như thế nào, sau đây là 4 câu chuyện nổi tiếng nhất về ông:

Chuyện kể có một thương nhân rất giàu có tên là Sĩ Tôn Phấn, một ngày nọ Lương Ký muốn xin tiền của ông, nhưng thay vì hỏi mượn trực tiếp, Lương Ký đòi bán cho ông 4 con ngựa, với giá cao ngất ngưỡng là 500,000 ngũ thù. Đây là một điều hoàn toàn không thể chấp nhận, và mặc dù Sĩ Tôn Phấn biết rằng không nên chọc giận Lương Ký, ông cũng không muốn mất nửa triệu, xin Lương Ký giảm giá xuống còn 300,000. Việc này làm Lương Ký không vui, bèn loan tin thất thiệt ra ngoài rằng mẹ của Sĩ Tôn Phấn từng là nô tỳ của nhà họ Lương đã bỏ trốn, lại ăn trộm và mang theo rất nhiều châu ngọc, sau đó sai quan dưới quyền bắt giữ, tra tấn và chém đầu cả nhà Sĩ Tôn Phấn mà không cần xét xử.

Lương Ký sau đó cho người đến tịch thu toàn bộ tài sản của người này, trị giá 170,000,000 ngũ thù.Ngoài giết thương nhân ra thì Lương Ký còn giết các quan lại chống đối nữa. Và một trong những quan lại này là một người tên Ngô Thọ, một nha huyện ở quê Lương Ký.

Và vì Lương Ký là người quyền lực nhất trong triều nên ở quê có những người thuộc Lương gia ỷ thế mà hống hách, không coi pháp luật ra gì. Nhưng Ngô Thọ là một nha huyện công tâm nên tất cả những người phạm tội đều bị xử theo pháp luật, với những tội danh lớn như giết người, Ngô Thọ cũng dựa trên pháp luật là xử trảm. Và như mọi người có thể đoán là vì vậy mà Lương Ký không vui, nên đòi chuyển Ngô Thọ sang giữ chức quan ở Kinh Châu. Và tại thời điểm đó có một luật bất thành văn là tất cả những quan chức mới lên nhậm chức đều phải đến gặp mặt Lương Ký trước khi đến chỗ làm việc, để tỏ lòng trung thành với người nắm giữ thực quyền. Và Lương Ký nhân cơ hội mở tiệc tiếp đãi ông, nhưng tất cả các đồ ăn và rượu của Ngô Thọ đều bị tẩm độc, nên Ngô Thọ chưa bước ra khỏi cửa nhà Lương Ký thì đã chết rồi.

Nếu giết một nha huyện chưa đủ thì sau đây là câu chuyện về một người tên là Hậu Mạnh Cương, được chỉ thị làm Thái thú Lưu Đông, Thái thú là một chức quan rất cao thời đó. Và Hậu Mạnh Cương hơi đi quá xa một chút, khi ông từ chối tới gặp Lương Ký trước khi tới chỗ làm việc. Lương Ký không vui, cho rằng đây là một hành động thách thức ông. Và thứ đợi Hậu Mạnh Cương ở Liêu Đông không phải là một chức quan mới mà là một Thánh Chỉ nói phải chém đầu Hậu Mạnh Cương ngay tại chỗ. Vậy là Lương Ký đòi chém đầu một Thái thú chỉ vì không tuân thủ luật bất thành văn của ông.

Những lúc Lương Ký rảnh rỗi không giết người, ông cũng có những thú vui tao nhã khác là nuôi thú, và ông là người rất thích nuôi thỏ, ông cho xây dựng cả một khu vực nuôi thỏ tại gia. Một ngày nọ, có một thương gia ngoại quốc người Tây Thành đến nhà Lương Ký để làm việc, người này vô tình té ngã đè chết một con thỏ ông nuôi. Và mọi người cũng biết số phận của người này như thế nào rồi đấy, nhưng chưa hết, ông cho người tìm và giết hơn 10 người thương gia vô tội khác, chỉ vì những người này cũng đến từ Tây Thành.

Và còn nhiều trường hợp khác được sử sách ghi lại về những hành động tàn bạo khác của Lương Ký.Cũng vì sự tàn bạo này Lưu Chí quyết định không làm Lương Ký tức giận, và giả vờ là một Hoàng đế bù nhìn nghe lời ông, biết rằng Lương Ký không có lý do gì mà không hãm hại ông như đã làm với Lưu Toản.

Vậy nên trong 4 năm đầu trên ngai vàng của mình, Hán Hoàn Đế sống dưới sự theo dõi chặt chẽ của Thái hậu Lương Nạp và các lính gác trong cung trung thành với Lương Ký, ông cũng phải giả vờ thân mật với Hoàng hậu Lương Nữ Oánh, người mà ông không yêu, nhưng biết rằng phải làm bà vui để có thể giữ ngôi.

Nhưng mọi thứ thay đổi vào năm 150, khi nhiếp chính là Thái hậu Lương Nạp mất, nên trên lý thuyết là quyền lực sẽ được trả về cho vị Hoàng đế 19 tuổi. Nhưng một lần nữa, ông biết kiên nhẫn và cho phép Lương Ký tiếp tục quản lý triều đình. Tuy nhiên cái chết của Thái hậu cũng cho phép ông có chút không khí để thở, khi Lưu Chí hoàn toàn bỏ mặc Hoàng hậu Lương Nữ Oánh và đưa rất nhiều phi tần vào cung. Việc này tất nhiên làm Hoàng hậu rất ghen tức, và bà quyết phải đảm bảo rằng bất kỳ phi tần nào có thai đều phải chết cả mẹ lẫn con.

Cuộc “chiến tranh lạnh” giữa Hoàng đế và Hoàng hậu tiếp diễn đến tận năm 159, khi cả Lương Nữ Oánh cũng qua đời và phải lập Hoàng hậu mới. Điều bất ngờ là cả Lưu Chí và Lương Ký đều cùng ủng hộ một phi tần được sủng ái là Lương Mãnh Nữ, thật tế, Lương Mãnh Nữ lúc nhỏ không phải họ Lương mà là họ Đặng, do cha mất sớm, mẹ bà tái hôn nên phải chuyển họ từ Đặng sang Lương. Và người cha dượng của bà lại trùng hợp là em trai của Lương Ký. Nên Lương Ký cho rằng Lương Mãnh Nữ sẽ là người thích hợp để thay thế vị trí Hoàng hậu cho em gái mình.

Tuy nhiên Lương Mãnh Nữ và mẹ bà lại phản đối Lương Ký và sự chuyên quyền của ông. Vì vậy Lương Ký cho sát thủ tới giết cả nhà Hoàng hậu mới, may mắn thay mẹ bà thoát được và chạy vào cung cầu cứu Hoàng đế.Chính sự kiện này là giọt nước tràn ly, khiến Lưu Chí tức giận và chuẩn bị lên kế hoạch lật đổ Lương Ký.

Nhưng việc này lại nói dễ hơn làm, bởi ngoại thích Lương Ký đã xây dựng một hệ thống chính trị trung thành với ông rồi, và cho dù có bất kỳ ai phản đối, cũng sẽ quá sợ Lương Ký để lên tiếng. Chỉ có một phe mà Hoàng đế có thể tin tưởng được là các hoạn quan. Bởi vì mặc dù Lương Ký có đầy nội gián là các hoạn quan và lính gác khắp trong cung, sau khi Thái hậu Lương Nạp qua đời, Hoàng đế cũng có một số quyền hành trong nhà mình nên biết được rằng có một số hoạn quan trung thành với mình và coi thường Lương Ký.

Và một trong số các hoạn quan này là một người tên Đường Hành, hoạn quan đầu tiên mà Hoàng đế thông báo cho kế hoạch. Một ngày nọ trong lúc đang đi vệ sinh, Lưu Chí hỏi Đường Hành rằng ông có biết còn hoạn quan nào trong cung ghét Lương Ký nữa không, Đường Hành vốn thông minh, ngay lập tức hiểu ý Hoàng đế và đưa ra tên 4 hoạn quan có tư thù với Lương Ký.

Trong vòng vài ngày tới, Đường Hành đưa từng người một tới nhà vệ sinh, nơi Hoàng đế sẽ vừa sả nỗi buồn, vừa bàn kế hoạch với các hoạn quan. Cùng với Đường Hành và 4 hoạn quan khác là Đơn Siêu, Từ Hoàng, Cụ Viên, Tả Quán.Lương Ký cũng nghe phong phanh về một cuộc nổi loạn của hoạn quan, và gọi cho một tướng quân trung thành với mình vào cung điều tra thử. Nhưng Hoàng đế và các hoạn quan nhanh chóng nhân cơ hội đảo ngược tình thế và bắt giữ vị tướng này vì tội xâm phạm cấm cung, lấy đi binh phù của tướng quân đó.

Sau đó họ nhanh chóng cắt chức đội trưởng đội lính gác, vì tội lơ là công việc để cho người khác vào cung, tịch thu luôn binh phù. Hoàng đế sau đó dùng cả hai binh phù này để tập hợp hơn một nghìn vũ lâm quân, và trong nhanh chóng cùng 5 hoạn quan ập vào dinh thự của Lương Ký, ép Lương Ký tự sát.

Ngày hôm sau ở triều đình, tất cả các thành viên thuộc Lương gia, và những người trung thành với Lương Ký đều bị xử trảm. Hoàn Đế đồng thời bãi chức hơn 300 đại thần do Lương Ký bổ nhiệm, khiến đa số các vị trí triều đình gần như trống rỗng. Toàn bộ tài sản của Lương Ký bị tịch thu, trị giá hơn 3,000,000,000 ngũ thù, Hoàng đế cũng phải hốt hoảng vì con số này và hạ lệnh cho giảm nửa số thuế trên cả nước trong nhiều năm để làm an lòng nhân dân.

Giờ mọi người có thể nghĩ sau khi diệt trừ được ngoại thích rồi thì Hán Hoàn Đế đã có thể an lòng rồi, nhưng những việc tiếp theo lại không thể nào lường trước được. Và một loạt các sự kiện chính trị trong 8 năm cầm quyền độc lập sắp tới của Lưu Chí sẽ khiến cả triều Đông Hán rơi vào khủng hoảng.

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Vào năm 159, khi Hán Hoàn Đế Lưu Chí cuối cùng cũng đánh bại được Lương gia, đứng đầu bởi ngoại thích là Đại tướng quân Lương Ký. Nhờ có sự giúp đỡ của 5 hoạn quan, Lưu Chí cuối cùng cũng đã nắm giữ được thực quyền. Và tất nhiên là 5 người này phải được trọng thưởng nhờ giúp đỡ Hoàng đế rồi, khi cả 5 hoạn quan đều được phong lên tước hầu, được gọi là Ngũ hầu (五侯), nhưng do là hoạn quan thì không thể có con, nên Hoàng đế cho người nhà của những người này giữ các chức quan cao trong triều.

Ngoài ra, hoạn quan Đơn Siêu còn được phong chức tướng quân để quản lý đội quân của Lương Ký.Tuy nhiên, diệt Lương Ký trong một khoản thời gian nhanh như vậy, cũng có để lại một số hậu quả.

Thứ nhất là việc khai trừ tất cả các đại thần từng thông đồng với Lương Ký khiến cho các chức quan trong triều đình gần như trống rỗng.

Thứ hai là những sĩ nhân trong triều từng bị Lương Ký kiềm hãm, nghĩ rằng đã tới lúc để chứng tỏ bản thân, nhưng Lưu Chí đã không còn tin tưởng sĩ nhân, trong mắt ông, đây là những người hèn nhát không dám đứng ra chống Lương Ký, hoặc chính bản thân họ thông đồng với nhà họ Lương.

Ngoài ra, do đa phần các sĩ nhân đến từ những gia tộc ngoại thích giàu có, mới có thể có tiền để đưa con cháu đi học, Hoàn Đế sợ rằng một trong những gia tộc này sẽ nắm giữ quá nhiều quyền lực, do đó đa phần những chức quan lớn đều giao cho hoạn quan hoặc người nhà của họ.

Thứ ba là từ đây mở ra một cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa phe sĩ nhân và phe hoạn quan. Hoạn quan là một phe cánh hoàn toàn trái ngược với sĩ nhân, bởi vì chỉ có những gia đình cực kỳ nghèo khổ mới có ý định bán con mình vào trong cung để làm hoạn quan, nên chắc chắn một điều là họ không được đi học và không có khả năng quản lý đất nước.

Do đó, với quyền lực mới của mình, họ cũng trở nên tham nhũng như Lương Ký và phe cánh của ông. Nhưng Lưu Chí không phải là không biết chuyện này, ông cũng có đưa một số sĩ nhân lên nắm giữ các chức quan cao trong triều để đỡ bớt tham nhũng, ngoài ra còn hạ lệnh chém Tả Quán và lưu đày Cụ Viên, trước khi cách chức luôn 3 hoạn quan còn lại trong Ngũ Hầu để làm gương.

Nhưng sâu trong thâm tâm, Hoàng đế cũng tin tưởng các hoạn quan tham nhũng này hơn là sĩ nhân, bởi vì các hoạn quan sẽ không thể đe doạ đến ngôi vị của mình được.Và thế là quyền lực rơi vào tay những hoạn quan tham nhũng, gây ra nhiều khó khăn cho đời sống của bá tánh, đến tận năm 166, khi cuộc tranh quyền giữa hai phe lên đến đỉnh điểm trong một sự kiện gọi là “Đảng Cố Chi Hoạ” hay 黨锢之祸, và sự kiện này trong Tam Quốc Diễn Nghĩa được coi là khởi đầu của sự sụp đổ của nhà Hán nên chúng ta sẽ đi sâu hơn một chút.

Để hiểu hơn về sự kiện này, chúng ta phải nói tới hai nhân vật, thứ nhất là Lý Ưng, được coi là lãnh đạo của phe sĩ nhân, năm 165, ông giữ chức Tư lệ hiệu uý ở Lạc Dương, chịu trách nhiệm cho việc xét xử tội phạm, ngoài ra Lý Ưng còn từng là một vị tướng ở biên cương, chống lại quân giặc người Khương, và đứng đầu “Bát Tuấn,” một nhóm nho sinh có tiếng trong giới sĩ nhân.Có thể mọi người sẽ thắc mắc là tại sao trong thời đại này lại có nhiều người vừa là sĩ nhân vừa là tướng quân tới vậy, điều này một phần là do tầng lớp xã hội của Trung Hoa thời bấy giờ, khi mà gia tộc rất có ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, gần như không có cách nào để leo lên bậc thang xã hội được, và tất cả các chức quan đều phải có được chỉ có thể có được thông qua người thân làm trong triều.

Như vậy, bạn phải đến từ gia tộc nổi tiếng, hoặc quen biết người trong gia tộc nổi tiếng mới có thể làm quan được. Đó là lý do tại sao chúng ta có rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong tam quốc là con cháu của những nhân vật nổi tiếng khác, ví dụ Tào Tháo là cháu của Tào Đằng, một hoạn quan nổi tiếng, Tôn Kiên có thể coi là hậu duệ của Tôn Tử, người viết ra Binh Pháp. Tuy nhiên, nếu bạn không thuộc dòng dõi quý tộc, các bạn vẫn sẽ có cơ hội nhất định, ví dụ như Hà Tiến, một người bán thịt không được đi học, cha mẹ mất sớm, phải đi làm để nuôi 5 người em, cuối cùng vẫn lên giữ chức Đại tướng quân nhờ có em gái trở thành Hoàng hậu.

Hay, nếu như bạn thực sự có tài, bạn có thể gây ấn tượng với những người thuộc gia tộc nổi tiếng để nhận được danh lợi. Ví dụ như Lý Ưng được coi là sĩ nhân giỏi giang có tiếng, và rất nhiều nho sĩ kéo đến để lấy lòng ông. Một người khi được mời đến nhà Lý Ưng sẽ được coi là “Đăng Long Môn” (登龙门) “Đến Cửa Rồng,” bởi vì đó là cơ hội duy nhất để khiến Lý Ưng ấn tượng, và được ông giúp đỡ cho một chức quan, từ đó đi lên trong con đường sự nghiệp.

Thật tế là Tuân Úc, một trong những mưu sĩ nổi tiếng của Tào Tháo, có một người chú là Tuân Sảng đã có cơ hội làm Lý Ưng ấn tượng, và còn được mời đẩy xe ngựa cho ông để có hai người có thêm thời gian trò chuyện vì Lý Ưng đang bận phải đến nơi khác làm việc, và mặc dù đẩy xe ngựa được coi là một công việc của người hầu, Tuân Sảng lại vô cùng tự hào và đi đâu cũng khoe về chuyện đó suốt cả cuộc đời ông.

Chỉ qua những câu chuyện này chúng ta đã có thể thấy Lý Ưng là một người có sức ảnh hưởng như thế nào, và trong giới nho sinh, ông được coi là tấm gương cho tất cả sĩ nhân học tập.Trái ngược với Lý Ưng và phe cánh của ông là Trương Nhượng, một trong những hoạn quan quyền lực nhất thời bấy giờ, ông sau này sẽ còn nổi tiếng hơn trong thời Hán Linh Đế, khi trở thành người đứng đầu Thập thường thị, và còn được Lưu Hoành gọi là “Quốc Phụ.”

Cuộc đấu đã giữa Lý Ưng và Trương Nhượng bắt đầu vào năm 165, khi em trai của Trương Nhượng là Trương Sóc bị cáo buộc vào tội tham nhũng của dân, và do Lý Ưng là Tư lệ hiệu uý ở kinh thành, chịu trách nhiệm xét xử tội phạm vào lúc đó, ông hạ lệnh bắt giữ Trương Sóc. Tuy nhiên Trương Sóc sau đó chạy trốn vào nhà anh mình là Trương Nhượng, đa phần các quan chức đều lo sợ không dám chọc tức Trương Nhượng, nhưng Lý Ưng không quan tâm, ông vẫn đưa người vào, tìm và bắt giữ Trương Sóc, em trai Trương Nhượng sau đó bị xét xử và chém đầu.

Cuộc bắt giữ Trương Sóc được giới sĩ nhân trong nước coi là bản tuyên chiến chính thức của Lý Ưng, và nhanh chóng một phong trào chống hoạn quan nổ ra trên Trung Hoa. Vô số các quan chức đã ra lệnh bắt giữ cả gia đình của hoạn quan, và sự thù hận của các sĩ nhân đối với hoạn quan và gia đình họ, những người không xứng đáng nắm giữ quyền lực dưới con mắt của sĩ nhân đã lên đến đỉnh điểm, khiến một số các nho sĩ đã đi quá xa giới hạn, khi ra lệnh tra tấn và chém đầu toàn bộ thành viên trong gia đình hoạn quan, kể cả trẻ em, mà không cần xét xử.

Bởi vì họ cho rằng sự tham nhũng này là quá rõ ràng và sợ nếu vụ việc để lâu, tin tức đến được Lạc Dương thì các hoạn quan sẽ dùng quyền lực của mình để yêu cầu thả người.Với một phong trào diệt hoạn quan quá lớn như vậy, các hoạn quan ở kinh thành chỉ có thể xin Hoàng đế giúp đỡ, và nói rằng những sĩ nhân này đang muốn tự mình điều khiển luật pháp.

Vậy là Hoàng đế nhân cơ hội mở tiệc ăn mừng năm mới 166, yêu cầu tất cả các quan chức trong nước thả tội phạm ra ngoài, nhưng đến thời điểm này, phe hoạn quan không muốn lùi bước nữa, và một số sĩ nhân nổi tiếng bao gồm Vương Doãn, người sau này giúp đỡ Lữ Bố lên kế hoạch giết Đổng Trác, mặc kệ Thánh chỉ của Hoàng đế, hạ lệnh giết hết những thân nhân của hoạn quan, chỉ tha tội cho những phạm nhân thông thường, và chúng ta đang nói tới cả một đại gia đình gồm hàng trăm người.Giới sĩ nhân viện cớ rằng mình đang diệt trừ tham nhũng cho nhân dân, nhưng trong mắt Hoàng đế, những sĩ nhân này đang xem thường Thánh chỉ và tự mình quyết định pháp luật.

Như vậy, vào năm 166, một quan chức tên là Trương Thành, người rất thân với phe hoạn quan, có người con bị Lý Ưng xử trảm mặc dù Thánh chỉ đã xuống nên căm hận, tố cáo Lý Ưng là kết bè đảng với các sỉ nhân khác đe doạ đến Hoàng đế.

Trong suốt các triều đại của Trung Hoa, việc kết bè đảng là điều cực kỳ cấm kỵ bởi họ coi việc quan chức đáng ra phải tận tâm phục vụ cho triều đinh và nhân dân lại liên minh với nhau đe doạ đến ngôi vua là không thể chấp nhận.Hán Hoàn Đế Lưu Chí vừa tức giận khi thấy Thánh chỉ của mình bị ngó lơ, hoàn toàn ủng hộ tố cáo này và hạ lệnh bắt giữ hơn 200 quan chức có quan hệ mật thiết với Lý Ưng.

Cuộc bắt giữ này và phiên toà xét xử sau đó được gọi là “Đảng Cố Chi Hoạ.” Tuy nhiên, cuộc bắt giữ này cũng chỉ dừng lại tại đây, khi cả 2 quan chức chịu trách nhiệm cho phiên xử đều ủng hộ Lý Ưng, và cầu xin Hoàng đế tha tội cho ông. Hoàng đế cũng không thể nào chém đầu hơn 200 người này được, bởi đây đều là những đại thần phục vụ lâu năm trong triều, và đều đến từ những gia tộc quan trọng mà Hoàng đế cần để cai trị đất nước, ngoài ra còn một số người không bị bắt cũng ra đầu thú, bởi họ cảm thấy nhục nhã nếu như không được xếp là thân thích với Lý Ưng.

Và ngay cả các hoạn quan cũng không muốn vụ xét xử này diễn ra, bởi có quá nhiều bằng chứng liên quan đến họ và người nhà tham nhũng nhiều đến mức nào, nên họ không muốn Hoàng đế biết chuyện.Vậy là cuối cùng, nhạc phụ Hoàng đế là tướng quân Đậu Vũ, cha của Hoàng hậu Đậu Diệu, cũng xin được Hoàng đế tha cho phe Lý Ưng.

Trước khi tiếp tục thì chúng ta cũng nên tìm hiểu về Đậu Vũ một chút và tại sao Hoàng đế lại lập Hoàng hậu thứ 3 như vậy. Như trong phần trước đã nói, sau Hoàng hậu Lương Nữ Oánh mất, Hoàn Đế lập phi tần của mình là Đặng Mãnh Nữ lên làm Hoàng hậu, nhưng sau khi diệt Lương Ký, Hoàng đế với quyền lực mới của mình bắt đầu trở nên đam mê sắc dục, và lập hơn 5000 phi tần và cung nữ khác nhau.

Có lẽ Lưu Chí cũng có một vấn đề tâm lý một chút do nhiều năm sống dưới quyền kiểm soát của Lương gia, khi ông mở cả một bữa tiệc lớn ở cung điện, bắt cả 5000 phi tần của mình tham gia quan hệ với các quan chức dự tiệc, còn Lưu Chí chỉ thích ngồi đó xem chứ không tham gia

. Và qua những sự việc này khiến mối quan hệ của Hoàn Đế và Lương Hoàng hậu ngày càng xấu đi, ngoài ra, mỗi khi tức giận, Lương Hoàng hậu cũng nhắc nhở Hoàng đế ngày xưa ông chỉ là bù nhìn cho Lương gia, khiến cho Hoàng đế sau này lưu đày bà và muốn lập phi tần ông sủng ái là Quách quý nhân làm Hoàng hậu mới.

Nhưng một số đại thần lại phản đối và muốn lập Đậu Diệu, nói rằng bà đến từ một gia tộc quyền lực, sẽ thích hợp làm Hoàng hậu hơn. Hoàng đế đành chấp nhận và lập Đậu Miêu làm Hoàng hậu, sau đó mặc kệ bà và lại tiếp tục vui chơi với các phi tần.Vậy là sau khi nhạc phụ Đậu Vũ xin Hoàng đế tha cho phe sĩ nhân, kết quả của cuộc xét xử là tất cả những ai bị bắt sẽ được miễn tội chết nhưng bị cách chức và giam giữ tại gia đến cuối đời.

Nhưng sự kiện “Đảng Cố Chi Hoạ” không chỉ dừng lại ở đây, bởi vì trong một năm tới, Hán Hoàn Đế Lưu Chí sẽ băng hà, và mặc dù ông là có tận 5000 phi tần, Hoàng đế chỉ có 3 người con gái và không có con trai, khiến cho cả triều đình một lần nữa phải tìm người nối ngôi.Việc Hán Hoàn Đế Lưu Chí băng hà, và mặc dù ông là đam mê tửu sắc, Hoàng đế chỉ để lại 3 người con gái duy nhất.

Và triều đình lại một lần nữa phải đi tìm hoàng thân để lập làm Hoàng đế. Đương nhiên, quyết định này được Hoàng thái hậu Đậu Diệu và cha là tướng quân Đậu Vũ quyết định.Và như trong phần trước đã nói thì Đậu Vũ là một người khuyên Hoàng đế tha cho các sĩ nhân trong cuộc Đảng Cố Chi Hoạ, nên có lẽ mọi người cũng đoán được ông theo phe nào rồi, tất nhiên là cũng sẽ không có lý do gì để không chọn Hoàng đế nhỏ tuổi một chút để Đậu Vũ lên làm nhiếp chính trong triều.

Và sau khi bàn bạc với nhau, họ Vũ quyết định đưa Lưu Hoành, một hầu tước 12 tuổi lên làm Hoàng đế, không chỉ vì tuổi nhỏ, mà còn do cha Lưu Hoành mất sớm, nên ngoài người mẹ không có tiếng nói ra, không ai có thể giúp đỡ Hoàng đế mới này cả.Đúng như Đậu Vũ dự tính, Hán Linh Đế Lưu Hoành khi đăng cơ không có thực quyền gì cả, quyền lực một lần nữa rơi vào tay ông, Đậu Vũ sau đó tự phong mình làm Đại tướng quân, và Trần Phồn, một nho sĩ đã gần 80 tuổi, người trước đây cũng từng xin Hoàng đế tha tội cho phe sĩ nhân trong vụ Đảng Cố Chi Hoạ, làm Thái Phó.

Đến đây thì có lẽ chúng ta cũng đoán được Đậu Vũ đang muốn làm gì, khi ông liên tục phong chức cho nhiều sĩ nhân trong triều, và nếu chúng ta có thể đoán được, đương nhiên các hoạn quan cũng có thể đoán được, và họ luôn theo dõi sát sao từng bước đi của Đậu Vũ.Vào tháng 5 năm 168, một hiện tượng nhật thực xuất hiện, Đậu Vũ và Trần Phồn lợi dụng hiện tượng này để tuyên truyền chống lại hoạn quan, nói các hoạn quan đang che lấp đi mặt trời, đại diện cho Hoàng đế.

Mặt khác, Đậu Vũ và Trần Phồn bí mật thả tự do cho một số sĩ nhân bị hại trong vụ Đảng Cố Chi Hoạ, bao gồm cả Lý Ưng, mặc kệ có Thánh chỉ xuống nói họ phải bị giam giữ họ tại gia. Và Đậu Vũ cùng những sĩ nhân này cùng lập lên kế hoạch để đưa quân ập vào cung, giết hết tất cả các hoạn quan.

Nhưng do một số lý do, một phần là vì Thái hậu Đậu Diệp, người đã quen sống trong cung được các hoạn quan chăm sóc, không đồng ý giết hết tất cả hoạn quan, và ngay cả Đại tướng quân Đậu Vũ cũng không chắc chắn được hành động của mình có được người dân ủng hộ không, nên kế hoạch bị tạm hoãn lại để Đậu Vũ tìm được nhiều bằng chứng chống hoạn quan hơn.

Vậy là kế hoạch bị tạm hoãn lại thêm 3 đến 4 tháng sau, cho đến khi bị một hoạn quan phát hiện vào đêm mùng 7 năm 168. Ngay lập tức, 17 hoạn quyền lực nhất, đứng đầu là Vương Phủ và Tào Tiết, được triệu tập vào cung bàn bạc với nhau để bảo vệ mạng sống của mình.

Không như Đậu Vũ, các hoạn quan ngay lập tức hành động, họ hạ lệnh cho đóng cổng thành, cướp Hoàng đế làm con tin, và lấy ngọc tỷ của ông để triệu tập ngự lâm quân tiến đến dinh thự của Đậu Vũ, lấy cớ là được lệnh Hoàng đế bắt giữ ông. Tuy nhiên, Đậu Vũ cũng đã chuẩn bị quân đội và hai bên đánh nhau ác liệt khắp cả kinh thành Lạc Dương.Trùng hợp thay là ngay lúc này tướng quân Trương Hoán, cùng quân đội của mình sau nhiều năm trấn giữ biên cương, chống quân giặc người Khương và Hung Nô ở Lương Châu, vừa trở về đến kinh thành Lạc Dương.

Và mặc dù quân đội của hoạn quan và Đậu Vũ mỗi bên có thể có khoảng 1,000 người, đội quân của Trương Hoán có đến hơn 10,000 quân tinh nhuệ nhiều năm chiến đấu ở Lương Châu. Như vậy, hỗ trợ của Trương Hoán sẽ là một yếu tố quyết định trong cuộc chiến này.Nhưng không may cho Đậu Vũ, Trương Hoán đã rời khỏi kinh thành suốt 5 năm, bởi ông là Thái thú Vũ Uy và là người trấn giữ biên giới phía tây cho nhà Hán, vì vậy, ông không hề hay biết gì về cuộc Đảng Cố Chi Hoạ, và những sự kiện trước đó dẫn tới cuộc chiến ác liệt tại kinh thành này. Tất cả những gì ông biết, là một bên là phe của ngoại thích Đậu Vũ, còn phe kia là của vị Hoàng đế nhỏ tuổi, nên theo lẽ thường Trương Hoán đương nhiên là sẽ giúp đỡ Hoàng đế.

Ngay lập tức, toàn bộ quân lính của Đậu Vũ bỏ kiếm và đầu hàng, bởi họ biết mình không có cơ hội để chiến thắng quân của Trương Hoán, Đại tướng quân Đậu Vũ ngay sau đó cũng tự sát. Một lần nữa, phe hoạn quan lại tiếp tục chiến thắng trước tập đoàn ngoại thích và sĩ nhân, họ ngay lập tức cho giam giữ tại gia Thái hậu Đậu Diệp, bà không lâu sau đó cũng qua đời, Thái phó Trần Phồn do giúp đỡ Đậu Vũ sau đó cũng bị xử trảm.

Về phần Trương Hoán thì sau đó đã biết được chuyện mình đã làm và hối hận cả đời, ông quyết không nhận tước hầu mà hoạn quan ban thưởng cho mình.Và giờ nếu mọi người nghĩ cuộc Đảng Cố Chi Hoạ đến đây đã kết thúc thì sai rồi, bởi mọi chuyện thực tế chỉ mới bắt đầu. Phe hoạn quan đã đại thắng trước phe sĩ nhân qua sự kiện này, và họ sẽ không dễ dàng bỏ qua cho các sĩ nhân như vậy.

Với vị Hoàng đế nhỏ tuổi trong tay, hoạn quan một lần nữa lợi dụng một vụ án nhỏ cùng năm đó để tố cáo các sĩ nhân đang kết bè đảng với nhau, lần này họ chỉ việc nói với vị Hoàng đế không biết gì này là các sĩ nhân đang cố làm hại đất nước và muốn giết những hoạn quan ngày ngày chỉ quan tâm giúp đỡ Hoàng đế.

Thế là, Hán Linh Đế Lưu Hoành hạ lệnh bắt giữ gần hết tất cả các sĩ nhân trên toàn quốc. Đến cuối năm 169, hơn 700 sĩ nhân đã bị xử trảm hoặc bị trục xuất đến các vùng biên cương xa xôi. Và đây có lẽ trở thành giai đoạn duy nhất mà hoạn quan kiểm soát đất nước trong lịch sử Trung Hoa.Có thể là khi Thái hậu Đậu Diệp và cha là tướng quân Đậu Vũ chọn lập Lưu Hoành lên làm Hoàng đế, họ nghĩ cuộc sống sẽ rất dễ dàng như Thái hậu Lương Nạp và Đại tướng quân Lương Ký, nhưng mà đời không như mơ, các hoạn quan sau khi có được quyền lực dưới thời Hoàng đế Lưu Chí đã rất quen thuộc với chuyện chính trị trong cung, ngoài ra, họ còn có một lợi thế khác là luôn được ở cạnh Hoàng đế, thực tế chính Tào Tiết, một hoạn quan đứng đầu trong triều là người đã đi rước Lưu Hoành vào cung đăng cơ làm Hoàng đế.

Và Lưu Hoành lúc đó cũng chỉ là một cậu bé vô tư vô nghĩ, không bao giờ tưởng tượng nổi mình sẽ trở thành người đứng đầu quốc gia, đương nhiên là sẽ thích chơi đùa cùng các hoạn quan “tận tình chăm sóc” mình ở Tây Viên, hơn là phải đi học cách điều hành đất nước với nho giáo cùng ông Thái phó Trần Phồn khó tính nào đó đã ngoài 80.

Và chiến thắng của hoạn quan trước phe sĩ nhân trong cuộc Đảng Cố Chi Hoạ lần thứ 2 năm 169, càng làm cho việc giáo dục Hoàng đế mới này ngày một tệ hơn, khi các hoạn quan chỉ giữ Lưu Hoành làm những trò nhảm nhí khắp cung điện như cho chó mặc đồ của quan chức, dẫn lừa vào cung cho Hoàng đế cưỡi,…

Khi Lưu Hoành lớn lên, ông cho mở rộng Tây Viên, xây dựng hàng nghìn dinh thự khác nhau, và còn cho xây cả một hồ bơi rộng lớn cho riêng mình.

Tuy nhiên, khác với Lưu Chí, tửu sắc không phải là thứ ông ham muốn. Hán Linh Đế Lưu Hoành lại thích một thứ khác: tiền, và rất, rất nhiều tiền.

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Đấu Gạo thời Đông Hán

Trong các phần trước đây, chúng ta chỉ nói đến những sự kiện vào cuối triều Đông Hán theo trình tự thời gian để hiểu được bối cảnh. Tuy nhiên, càng về sau, sẽ có nhiều bài viết đi sâu vào từng chủ để hơn, giống bài này, điều này có thể sẽ gây rối một chút cho người đọc vì các mốc thời gian chồng chéo nhau.

Nhưng là điều cần thiết bởi hai cuộc khởi nghĩa lớn vào thời này là Khởi nghĩa Khăn Vàng và Khởi nghĩa Lương Châu diễn ra cùng lúc, nhưng lại có nguyên nhân hoàn toàn khác nhau, do đó không thể chỉ liệt kê từng sự kiện diễn ra năm 184 được, mà phải tách ra làm nhiều phần.

Trong phần này, chúng ta sẽ đi sâu vào quan chế, hệ thống chính trị, mức lương của các chức quan đứng đầu nhà Đông Hán, và sự mua quan bán chức dưới quyền của Hán Linh Đế Lưu Hoành.Đầu tiên, nhà Hán vẫn giữ nguyên hệ thống chính trị “Tam công Cửu khanh” (三公九卿) từ thời nhà Tần.

Tam công Cửu khanh có thể chia làm hai phần, phần thứ nhất là “Tam công” (三公), tức ba cấp quan cao cấp nhất ở trong triều đình, chỉ dưới quyền duy nhất là Hoàng đế. Có thể mọi người thấy quen thuộc, bởi hai anh em Viên Thiệu và Viên Thuật đến từ một gia tộc quyền thế gọi là “Tứ thế Tam công” (四世三公), hay “Bốn đời Tam công,” nghĩa là 4 đời trước của nhà họ Viên đều có ít nhất 1 thành viên được phong lên chức Tam công, một điều vô cùng ấn tượng.

Dưới quyền Tam công là “Cửu khanh” (九卿) tức 9 chức quan nhỏ hơn, để hỗ trợ, giúp đỡ Tam công.Mặc dù tên của các chức quan trong Tam công Cửu khanh trong 800 năm từ thời nhà Tần cho đến thời nhà Tấn có phần khác nhau, vai trò của nó vẫn gần như không thay đổi.Vào cuối thời Đông Hán, tên của 3 chức Tam công là “Tư đồ” (司徒), “Tư không” (司空) và “Thái uý” (太尉).

Cũng giống như Thủ tướng, Phó Thủ tướng, và Bộ trưởng Bộ quốc phòng, trong đó Tư đồ (Thủ tướng) là chức quan quyền lực nhất, được Tư không (Phó Thủ tướng) hỗ trợ, còn “Thái uý” (Bộ trưởng Bộ quốc phòng) thì chịu trách nhiệm quản lý quân đội. Nhưng ở thời này, các Hoàng đế bắt đầu tập trung quyền lực hơn, khi nhiều quyết định lớn nhỏ trong triều đều phải qua Hoàng đế quyết định, ngoài ra còn tạo ra một chức quan mới tên là “Thái phó” (太傅), cao hơn cả Tam công, chịu trách nhiệm dạy học cho các Thái tử hoặc hỗ trợ Hoàng đế làm việc.

Như mọi người có thể thấy, quyền lực của Tam công đã bị suy giảm đi rất nhiều, vào thời Hán Linh Đế, ngay cả Thái uý, tương đương với Bộ trưởng Bộ quốc phòng, cũng phải dưới quyền của “Đại tướng quân” (大將軍), ngang với chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội.Dưới quyền Tam công là 9 chức quan tên Cửu khanh, vào thời này được chia ra làm 3 nhóm, mỗi nhóm sẽ hỗ trợ và được đặt dưới quyền mỗi chức quan trong Tam công.

Mục đích của việc này là để làm giảm quyền lực của Tư đồ, chức cao nhất trong Tam công, trước đây Tư đồ thường nắm giữ quyền lực của cả 9 chức quan Cửu khanh dưới trướng.

Nhưng sau này nhà Đông Hán cơ cấu lại hệ thống chính trị, chỉ cho Tư không quản 3 chức Cửu khanh ít quyền lực nhất là “Đại hồng lư” (大鴻臚), “Đình uý” (廷尉) và “Thái bộc” (太僕). Đại hồng lư cũng giống Bộ trưởng Bộ ngoại giao bây giờ, chuyên quản lý chuyện ngoại giao với các nước khác hoặc các bộ lạc trong nước, mới đầu nghe thì có vẻ quan trọng, nhưng thực chất chỉ là công việc phụ, bởi ngoại giao thời đó khá đơn giản do các “quốc gia” láng giềng quanh Trung Quốc bấy giờ cũng chỉ là những bộ tộc như Khương và Hung Nô, không chiến tranh với nhà Hán thì cũng là chư hầu.

Đình uý chuyên trông coi việc xử án các trọng tội. Và cuối cùng là Thái bộc, lo việc nuôi, chăm sóc ngựa cho triều đình, khỏi nói cũng biết đây là chức quan ít quyền lực nhất trong Cửu khanh.Ngược lại, Tư không trước đây là chức quan ít quyền lực nhất trong Tam công, vì chỉ là “Phó thủ tướng” hỗ trợ Tư đồ làm việc, lại được quản 3 chức quan cao nhất trong Cửu khanh là “Thiếu phủ” (少府), “Đại tư nông” (大司農) và “Tông chính” (宗正).

Thiếu phủ là chức quan chuyên tính toán việc chi tiêu của Hoàng đế và những người trong cung. Tiếp theo là Đại tư nông, ngang với Bộ trưởng Bộ kinh tế, có thể nói đây là chức quyền lực nhất trong Cửu khanh, bởi không chỉ quản lý nền kinh tế cả nước, mà Đại tư nông còn chịu trách nhiệm cho việc phân phối đất đai và sản phẩm nông nghiệp của cả Trung Hoa.

Lý do Bộ kinh tế với Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn được hợp lại làm một là bởi vì tiền lương nhà nước thời đó không chỉ trả bằng tiền mặt mà còn trả bằng gạo, do lương thực cũng là đơn vị tiền tệ thời đó. Cuối cùng là Tông chính, như cái tên đã nói hết, chịu trách nhiệm ghi chép lại cây phả hệ của Hoàng tộc, năm sinh năm mất, bao gồm cả những họ hàng rất, rất xa của Hoàng đế.

Sau cùng là Thái uý, quản 3 chức quan là “Vệ uý” (衛尉), “Quang lộc huân” (光祿勳) và “Thái thường” (太常). Vệ uý đứng đầu đội cận vệ của triều đình, chịu trách nhiệm bảo vệ Hoàng đế. Quang lộc huân chuyên quản lý cấm cung, đứng đầu đội cận vệ trong cung, nghe có vẻ giống với Vệ uý, nhưng khác biệt là Vệ uý quản cận vệ của triều đình, còn Quang lộc huân quản lý đội cận vệ riêng của Hoàng đế.

Cuối cùng là Thái thường chuyên phụ việc trông coi những lễ hội truyền thống trong kinh thành.Dưới quyền của Cửu khanh nữa là hàng trăm các chức quan khác phụ việc quản lý cái đất nước rộng lớn này. Nhưng chúng ta hãy nói đến việc tiếp theo là mức lương của những chức quan này như thế nào.

Nói chung, có 6 cấp bật lương bổng khác cho quan chức cuối nhà Hán. Bao gồm “Vạn Đạn” (万石) hay ”10,000 Đạn;” “Trung Nhị Thiên Đạn” (中二千石) hay “Trung 2,000 Đạn;” “Chân Nhị Thiên Đạn” (真二千石) hay “Chân 2,000 Đạn;” “Nhị Thiên Đạn” (二千石) hay “2,000 Đạn;” “Tỉ Nhị Thiên Đạn” (比二千石) hay Tỉ 2,000 Đạn;” sau cùng là từ 100 đến 1000 Đạn.

Nghe thì có vẻ hơi khó hiểu, trước tiên ta phải biết “Đạn” là gì trước đã. Từ “石” ở đây thời nay có nghĩa là “thạch,” tức đá, nhưng khi dùng làm đơn vị đo lường thì phải đọc là “Đạn.” Và 1 “Đạn” tương đương với 10 “Đẩu” (斗) hay Xô. Còn “Đẩu” là một đơn vị đo thể tích gạo bằng với 1 cái xô như hình dưới, khoảng 2 lít khối, tức 1 “Đạn” tương đương với 10 xô gạo như vậy. Như vậy, 1 “Đạn” vị chi khoảng bằng 30 kg gạo.

Theo các sử gia thì giá thị trường của 1 “Đạn” thời đó là khoảng 200 ngũ thù (đơn vị tiền tệ thời đó), tuy nhiên giá thị trường cũng sẽ thay đổi vào thuộc từng mùa màng thu hoạch trong năm, nhưng có lẽ con số này cũng đủ sử dụng rồi.

Một con số khác đáng lưu ý nữa thu nhập bình quân của tầng lớp trung lưu thời đó là khoảng 10,000 ngũ thù/1 năm, hay khoảng 20 “Đạn” nếu tính theo gạo.Giờ quay lại với cấp bậc lương bổng của nhà Đông Hán sau khi chúng ta đã biết 1 “Đạn” là gì rồi. Không như cái tên, “Vạn Đạn” không phải là có mức lương 10,000 “Đạn,” mà là 350 “Đạn” mỗi tháng, hay 4,200 “Đạn” mỗi năm, và chỉ có những người thuộc Tam công trở lên mới có mức lương này, tất nhiên, bạn vẫn có thể nhận nhiều lương hơn, tuỳ vào Hoàng đế thích bạn hay không, và tuỳ vào quyền lực của bạn nữa, ví dụ, khi Đổng Trác tiến vào kinh thành Lạc Dương, ông tự phong mình là Tướng quốc, với mức lương “Tứ Vạn Đạn” (四万石) hay gấp 4 lần “Vạn Đạn.” Dưới là mức “Trung Nhị Thiên Đạn,” lãnh 180 “Đạn” mỗi tháng, hay 2,160 “Đạn” mỗi năm, đây là mức lương của Cửu khanh.

Dưới nữa là “Chân Nhị Thiên Đạn,” với 150 “Đạn” mỗi tháng, hay 1,800 “Đạn” mỗi năm. Tiếp là “Nhị Thiên Đạn” với 120 “Đạn” mỗi tháng hay 1,440 “Đạn” mỗi năm. Dưới nữa là “Tỉ Nhị Thiên Đạn,” với 100 “Đạn” mỗi tháng, hay 1,200 “Đạn” mỗi năm. Sau nữa là những chức quan nhỏ, trả lương từ 100 đến 1,000 “Đạn” mỗi năm.

Mục đích của bài viết này không phải là để nói về hệ thống chính trị hay mức lương của nhà Hán. Mà là sử dụng những con số này làm bối cảnh để bàn về việc mua quan bán chức của Lưu Hoành, khi mà dưới thời ông, toàn bộ các chức quan trong triều, bao gồm cả Tam công, đều được đem ra bán, bắt đầu từ năm 178.

Và Hán Linh Đế Lưu Hoành đã ghi rất rõ luật bán quan chức này như thế nào.

1/ Thứ nhất, là dựa trên mức lương, ví dụ nếu một chức quan có mức lương 400 ngũ thù/1 năm, thì giá của chức quan đó sẽ là 4 triệu ngũ thù, trả bằng tiền mặt, nói cách khác là 10,000 lần mức lương của chức quan đó. Như chúng ta đã biết, 1 “Đạn” có giá thị trường là 200 ngũ thù, như vậy, số tiền dùng để mua các chức quan này gấp 50 lần so với mức lương.

2/ Thứ hai, nếu bạn muốn mua một chức quan ở địa phương, nghĩa là làm việc cách xa Lạc Dương, thì giá bán sẽ tăng gấp đôi, bởi bạn nhiều quyền lực và tự do hơn so với làm việc ở kinh thành, nơi có nhiều quan chức cấp cao hơn.

3/ Thứ ba, nếu bạn đến từ một gia tộc có tiếng, chúc mừng nhé, bạn sẽ được giảm giá 50%.

4/ Thứ tư, nếu bạn không có tiền để mua quan với giá của Hoàng đế, không sao, Lưu Hoành sẽ cho bạn lựa chọn trả góp, bạn có thể nhận chức trước, rồi trả giá gấp đôi trong vòng 2 năm sau.

5/ Thứ năm, nếu bạn đã có sẵn một chức quan rồi và được thăng chức, với mức lương cao hơn, bạn cũng phải trả giá 25% so với mức lương mới

6/ Thứ sáu, đối với những chức quan nhiều người muốn, mức cầu cao, đích thân Hoàng đế sẽ mở một cuộc bán đấu giá (yup, đấu thầu mua chức) để thu về nhiều tiền nhất có thể. Ví dụ, cha của Tào Tháo là Tào Tung, đã đứng ra mua luôn chức Thái uý, với giá 100 triệu, gần gấp 3 lần giá gốc, chỉ để lấy lòng Hoàng đế, mặc dù chính ông không muốn làm công việc này, và từ chức sau 5 tháng để giúp Hoàng đế bán tiếp chức quan này thu về nhiều tiền hơn.

Và hệ thống mua quan bán chức này mà Lưu Hoành tạo ra, hợp pháp hoá việc tham nhũng trên toàn quốc, khi mà những người làm quan không quan tâm tới việc phục vụ nhân dân nữa, mà chỉ lo bóc lột, tham nhũng để lấy lại được tiền vốn lẫn lời mà mình đã mua từ Hoàng đế. Và tất cả những quan chức công minh, muốn giúp nhân dân sẽ đều bị loại bỏ hết, bởi không ai không tham nhũng mà có thể đủ tiền để chi trả với giá bán quan như vậy được.

Tất nhiên, những người chịu thiệt nặng nề nhất vì chính sách này không phải là những quan chức mất quyền vì không tham nhũng. Mà là những thường dân vô tội, giờ đây bị bóc lột từ mọi phía. Đến mức mà quyết định hy sinh cả tính mạng tham gia Khởi nghĩa Khăn Vàng năm 184 là chính điều tốt nhất họ có thể làm.

Nhưng trước khi nói về Khởi nghĩa Khăn Vàng, chúng ta phải nói về cả Lương Châu và lý do tại sao một cuộc khởi nghĩa khác lại diễn ra vào cùng thời gian nữa.

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Lương Châu

Nhà Tây Hán vào thời điểm hưng thịnh nhất của mình, kiểm soát toàn bộ vùng đất màu xanh lá bên dưới, gồm cả một phần lãnh thổ Nga, Triều Tiên, Việt Nam và Kazakhstan hiện nay. Một điều đáng chú ý, là nhà Hán lại nắm giữ một phần lãnh thổ phía tây rộng lớn, nằm cách xa khu vực đông dân cư ở Trung Nguyên.Để hiểu tại sao lại có chuyện như vậy, trước tiên chúng ta phải xem nhà Hán chia các khu vực ra để cai quản như thế nào.

Ở trong hình, vùng đất màu hồng được khoanh tròn chính là Lương Châu, tâm điểm của những sự kiện sau này khi chúng ta đi sâu vào cuộc Khởi nghĩa Lương Châu. Nhưng tuy nhiên, kế bên nó, như các bạn thấy, là vùng màu xanh lá khổng lồ tên 西域都护府, tức “Tây vực Đô hộ phủ”, sau này mình sẽ chỉ gọi là “khu vực phía tây.”

Khu vực này không có nhiều người Hán sinh sống, và chưa bao giờ được công nhận là 1 “châu” của nhà Hán, đúng hơn chỉ là một tập hợp của 50 bộ tộc nhỏ làm chư hầu cho nhà Hán. Khu vực phía tây này trải dài đến tận Đế quốc Ba Tư và là lối đi chính cho con đường tơ lụa nổi tiếng.

Để có được vùng đất này, nhà Hán đã bỏ ra hơn 300 năm để đánh nhau với bộ tộc người Hung Nô và cuối cùng giành chiến thắng. Về phần tộc Hung Nô, sau khi liên tục thất bại đã xảy ra lục đục nội bộ, và bị chia ra làm hai, tộc Bắc Hung Nô di cư về phía tây bắc sang châu Âu, sau này đánh nhau với La Mã, tộc Nam Hung Nô chọn ở lại và trở thành chư hầu cho nhà Hán.

Mặc dù có ý định nổi loạn trở lại vào thời kỳ Tam Quốc, họ một lần nữa bị đánh bại bởi quân của Tào Tháo, ông làm suy yếu tộc Hung Nô hơn nữa, khi chia tộc này thành 5 tộc người khác nhau, khiến họ không còn khả năng chống cự quân Hán, cho đến khi Trung Hoa tiếp tục đại loạn vào thời Loạn Bát Vương nhà Tấn.

Chiến thắng trước quân Hung Nô dẫn đến rất nhiều hệ quả. Thứ nhất, việc buôn bán, trao đổi hàng hoá phát triển cực thịnh qua con đường tơ lụa, và một số hàng hoá được nhập khẩu vào Trung Hoa trong thời kỳ này gồm các loại thực phẩm như vừng, đậu, dưa leo, hành lá, cà rốt,… và một số loài động vật như lạc đà, lừa, ngựa,… Tất nhiên là trước đó Trung Hoa vẫn có ngựa, nhưng thông qua con đường tơ lụa, họ nhập khẩu một số giống loài mới to hơn và khoẻ hơn, ví dụ như ngựa Xích Thố của Lữ Bố cũng là hàng nhập khẩu về.

Ngoài nhập khẩu hàng nước ngoài ra, Trung Hoa còn xuất khẩu tơ lụa và các đồ dùng sắt khác. Do đó, nhà Hán luôn tìm cách để bảo vệ được con đường tơ lụa này.Tuy nhiên, đánh bại được quân Hung Nô còn để lại một số hậu quả khác, khi kẻ thù chính chuyển từ tộc Hung Nô sang tộc người Khương ở phía nam Lương Châu. Trong hàng trăm năm qua, Khương tộc không phải là một bộ tộc du mục như Hung Nô, mà chỉ là nông dân sinh sống trong các vùng đất màu mỡ ở Lương Châu, làm chư hầu cho Hung Nô.

Khi quân Hán đánh bại được Hung Nô, nhiều người dân Hán đã đến đây sinh sống, đẩy tộc Khương ra khỏi các vùng đất màu mỡ dễ trồng trọt, canh tác, buộc tộc Khương trở thành dân du mục, một số còn xin phục vụ quân đội nhà Hán làm lính đánh thuê chống Hung Nô. Nhờ vậy, người Khương một lần nữa được mời trở lại sống chung với người Hán, và dần dần hôn nhân giữa 2 tộc người này trở nên phổ biến, ví dụ như quân phiệt Mã Đằng, cha của Mã Siêu, là con lai giữa người Hán và Khương.

Nhưng hai dân tộc này không phải lúc nào cũng hoà thuận, và đã có hơn 5 cuộc khởi nghĩa tại Lương Châu diễn ra trong thời nhà Hán, với cuộc khởi nghĩa cuối cùng sẽ là cuộc khởi nghĩa chúng ta bàn đến sau này. Lý do thường là vì một số quan chức chịu trách nhiệm quản lý tộc Khương là “Hộ Khương hiệu uý” (护羌校尉) làm sai chuyện gì đó hoặc trở nên tham nhũng. Và tộc người Khương có phần hơi đặc biệt ở chỗ họ không quan tâm tới sắc tộc, và chỉ chọn lựa lãnh đạo dựa trên năng lực, như vậy, bạn có thể là một công dân người Hán, như Hàn Toại, chứng minh bạn có năng lực lãnh đạo, và tộc Khương đó sẽ quyết đi theo bạn.

Nhưng cũng vì vậy mà đa phần các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, do các chỉ huy cuộc khởi nghĩa quay sang đánh nhau tranh giành quyền lực.Trước khi tìm hiểu về cuộc Khởi nghĩa Lương Châu cuối cùng, trong phần tới, chúng ta phải bàn đến chính sách của nhà Hán tại Lương Châu trong thời 3 vị Hộ Khương hiệu uý thành công nhất là Hoàng Phủ Uy, Trương Hoán, Đoàn Quýnh trước đã. Ba người này còn được gọi là “Lương Châu Tam Minh” (涼州三明), do trong tên tự đều có chữ “Minh.”

Cả ba người này đều có rất nhiều thành công trong thời làm Hộ Khương hiệu uý. Trong phần 2 chúng ta đã nói sơ qua về Trương Hoán, khi ông trở về kinh thành và vô tình giúp hoạn quan giết được Đậu Vũ. Hoàng Phủ Quy là cậu của Hoàng Phủ Tung, một tướng quân có công diệt giặc Khăn Vàng. Và Đoàn Quýnh là một trong những tướng quân thành công nhất thời Đông Hán, nhưng thường không được nhắc tới do ông câu kết với hoạn quan.

Tất cả những thành công của Lương Châu Tam Minh sẽ được nói đến trong phần sau, khi chúng ta đi sâu vào việc chính sách tàn bạo của Đoàn Quýnh và tham nhũng của Lưu Hoành đã đẩy toàn bộ vùng Lương Châu vào khởi nghĩa trong thời điểm tệ nhất có thể, khi mà quân Khăn Vàng cũng đang đánh chiếm các khu vực miền đông bắc Trung Hoa.

Và hết phần sau là chúng ta đã có đầy đủ thông tin làm bối cảnh để đi sâu cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng và các quân phiệt như Mã Đằng, Hàn Toại, Đổng Trác,… đều có liên quan đến cuộc khởi nghĩa ở Lương Châu.

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Từ trái sang phải: Hoàng Phủ Quy, Trương Hoán và Đoàn Quýnh.

Trong phần này, chúng ta sẽ nói về “Lương Châu Tam Minh” (涼州三明) gồm Hoàng Phủ Quy, Trương Hoán và Đoàn Quýnh. Cả ba vị tướng này đều từng giữ chức “Hộ Khương hiệu uý” (护羌校尉), tức chức quan chịu trách nhiệm quản lý tộc Khương, mối đe doạ ngoại bang lớn nhất của nhà Hán sau khi đánh bại được quân Hung Nô. Và vì cả 3 vị tướng này đều rất thành công trong việc trấn giữ biên cương phía tây bắc cho nhà Hán, họ được gọi là Lương Châu Tam Minh, bởi cả 3 đều có từ “Minh” trong tên tự của mình: Uy Minh (威明; Hoàng Phủ Quy), Nhiên Minh (然明; Trương Hoán); Kỷ Minh (纪明; Đoàn Quýnh)

Tuy nhiên, 3 người này lại có cách xử lý dân du mục và tham nhũng tại Lương Châu vô cùng khác nhau. Bắt đầu với nhân vật chúng ta quen thuộc nhất: Trương Hoán, vì ông đã một lần xuất hiện trong phần 2 rồi. Trương Hoán sinh năm 104, cha ông là Thái thú Hán Dương, thủ phủ Lương Châu, nhờ đó, ông được giáo dục rất tốt từ bé và trở thành một nho sinh trong khi còn rất trẻ. Năm 155, ở tuổi 51, ông phong làm chỉ huy trấn giữ thành An Định tại Lương Châu, dưới trướng chỉ có 200 người. Không lâu sau khi ông nhậm chức, 7,000 quân Hung Nô ở phía bắc tiến vào cướp bóc, quấy phá Lương Châu, khiến cho nhiều người Khương bản địa cũng theo Hung Nô đi cướp phá. Ngay lập tức, Trương Hoán ra lệnh phản công, mặc dù trong thành chỉ có 200 quân, ông đoán đúng rằng thực chất người Khương không có ý khởi nghĩa, mà là tranh thủ theo quân Hung Nô cướp của.

Vì vậy, khi quân thấy quân của Trương Hoán tới, dân Khương nhan chóng đầu hàng sau vài trận đánh. Sau đó, ông tuyển những người Khương này vào quân đội của mình, và dùng họ để đẩy lui tộc Hung Nô.

Nhờ có chiến thắng này, triều đình quyết định thăng ông làm đại sứ cho các chư hầu phía nam tộc Hung Nô, nhằm làm nội gián thăm dò các hoạt động của tộc này. Cuối năm đó, tộc Hung Nô lại liên minh với các bộ lạc Tiên Ti và Ô Hoàn tiến hành cướp phá vào U Châu, phía đông bắc Trung Hoa. Trương Hoán, một lần nữa, áp dụng chiến thuật “chia để trị,” ông dùng tiền mua chuộc tộc Ô Hoàn, khiến họ đổi phe theo nhà Hán. Sau đó mở các chiến dịch nhỏ, nhằm tiêu diệt các lãnh đạo chỉ huy quân Hung Nô, buộc tộc Hung Nô, giờ không còn ai lãnh đạo, đầu quân cho nhà Hán.

Sau đó, sử dụng quân đội nhà Hán, tộc Hung Nô và Ô Hoàn để tiêu diệt tộc Tiên Ti ngoan cố hơn, nhờ vậy đem lại hoà bình tạm thời cho biên giới phía bắc nhà Hán.

Năm 159, khi Hán Hoàn Đế Lưu Chí cuối cùng cũng diệt được Lương gia, như đã nói , Trương Hoán lại bị cách chức, vì Hoàng đế coi ông là quan chức được Lương Ký bổ nhiệm. Ông về vườn trong vòng 5 năm, trong khoảng thời gian đó, Hoàng Phủ Quy, cũng nằm trong Tam Minh, viết tấu sớ xin Hoàng đế tha cho Trương Hoán đến 7 lần, trước khi triều đình quyết định phục chức cho ông, phong Trương Hoán làm Thái thú Vũ Uy (fun fact: như đã nói, Hoàng Phủ Quy là cậu của Hoàng Phủ Tung, người sau này cũng xin Hoàng đế miễn tội cho Lư Thực khi bị hoạn quan vu oan, cái nhà này có truyền thống xin tha tội cho mọi người nhỉ 🐧).

Trở lại với Trương Hoán, khi ông nhậm chức thái thú Vũ Uy, vùng đất ở biên cương phía tây bắc nhà Hán. ông hạ lệnh cho cắt giảm tô thuế, phân chia đồng đều các vùng đất chưa được khai hoang, và ban hành luật nghiêm cấm bóc lột lao động với các dân tộc thiểu số. Ngoài ra, ông còn bãi bỏ cả hủ tục mê tín lạc hậu ở những bộ lạc, thời này, họ vẫn giữ một số hủ tục như giết tất cả những trẻ em sinh ra vào cùng tháng với ba hoặc mẹ. Nhờ những chính sách này, Trương Hoán đã phần nào làm giảm sự tranh chấp giữa các dân tộc thiểu số và dân Hán.

Danh tiếng vang dội, ông lại được thăng chức, chịu trách nhiệm trấn giữ toàn bộ vùng biên cương phía bắc Trung Hoa, gồm U Châu, Tịnh Châu, Lương Châu chống lại các tộc du mục. Nhờ tài năng của mình, những vùng này sau đó không còn có dấu hiệu nổi loạn, chỉ trừ Lương Châu. Nhưng năm 166, triều đình quyết định thăng chức cho ông làm Đại tư nông, một trong 9 chức quan thuộc Cửu khanh, vừa nghe tin ông về Lạc Dương nhậm chức, tộc Hung Nô lại liên minh với tộc Tiên Ti, Ô Hoàn và Khương tiếp tục làm loạn, cướp phá khắp 3 châu U, Lương, Tịnh. Nghe được tin đó, Trương Hoán từ chức Đại tư nông, nói triều đình cho Hoàng Phủ Quy làm thay mình, và gấp rút quay lại phía bắc, tộc Hung Nô vừa thấy Trương Hoán đã lập tức đầu hàng. Ông nhanh chóng dẹp yên được các bộ lạc này, chỉ trừ Lương Châu là vẫn còn 5,000 quân du mục người Khương nổi loạn.

Do đó, Trương Hoán quyết định cho Đổng Trác, lúc này là tướng dưới trướng ông, bởi Đổng Trác là người quen thuộc với Lương Châu nhất, đưa quân sang dẹp loạn.Sau một năm thì dẹp yên được Lương Châu, Trương Hoán cuối cùng cũng trở về kinh thành nhậm chức. Và đó là lúc chúng ta thấy Trương Hoán, khi ông trở về vừa đúng lúc Đại tướng quân Đậu Vũ và hoạn quan đang chém giết nhau ở Lạc Dương. Ông không biết lại giúp đỡ hoạn quan, bởi họ có Hoàng đế trong tay, Trương Hoán nghĩ mình đang giúp Hoàng đế vì ông biết gì về những việc diễn ra ở triều đình. Ông hối hận, làm Đại tư nông được 1 năm thì từ quan do mâu thuẫn với hoạn quan và trở về Lương Châu làm thầy đồ dạy học 12 năm trước khi qua đời ở tuổi 78.

Giờ chúng ta nói đến Hoàng Phủ Quy, người xin Hoàng đế tha tội cho Trương Hoán. Hoàng Phủ Quy cũng sinh năm 104, ở An Định quận, thuộc Lương Châu, cũng khá gần nơi sinh của Trương Hoán. Ông nội và cha ông đều là những tướng quân chống tộc Hung Nô giúp nhà Hán, nhờ sinh trong một gia đình có truyền thống quân sự như vậy, Hoàng Phủ Uy từ nhỏ đã được cho học Binh pháp và am hiểu khá nhiều điều trong binh gia.

Nhưng không may là ông lại không có cơ hội chứng tỏ bản thân hồi còn trẻ, vì không được phong chức quan nào cả.Năm 141, tộc Tây Khương mở một cuộc tấn công lớn vào thành An Định, và bao vây thành trong nhiều tháng. Để đáp trả, triều đình nhà Hán đưa một đội quân khổng lồ, khoảng 100,000 người để giải vây cho thành này, bởi nếu An Định rơi vào tay quân giặc, thì rất có thể mục tiêu tiếp theo sẽ là Trường An. Và trong khu thành An Định này, Hoàng Phủ Quy, lúc này chỉ là 1 thường dân, mọi ngày thường leo lên cổng thành để xem xét chiến thuật của cả phe Tây Lương và phe triều đình. Ông sau đó viết một báo cáo rất dài, nói rằng nhà Hán đang sử dụng sai chiến thuật chống lại quân Tây Lương. Đúng như dự đoán, sau vài tháng, quân nhà Hán đã đại bại, tất cả các tướng quân đều bị giết, và thành An Định tiếp tục bị vây.

Thái thú An Định lúc đó thấy Hoàng Phủ Quy hiểu chuyện, bởi tất cả những gì trong báo cáo đều đúng cả, cho ông làm chỉ huy 800 quân lính còn lại trong thành. Hoàng Phủ Quy dùng 800 lính này xông ra khỏi thành, sau một trận đánh ác liệt, đã có thể giải vây cho thành.Tới đây có thể bạn nghĩ Hoàng Phủ Uy sẽ nhận được 1 chức quan to, nhưng thay vì nhận thưởng, ông nhân cơ hội viết một bản báo cáo dài hơn nữa, nói rằng nhà Hán đang sử dụng sai chiến lược quân sự và dân sự tại Lương Châu, rằng đội quân Hán ở đây quá lớn, quá cồng kềnh và quá bị động, không thể đối mặt với chiến thuật du kích của các bộ lạc nhỏ được. Vì đội quân quá lớn mà không thể ngăn quân du kích, khiến cho hậu cần của quân Hán không thể đủ. Và mỗi lần thiếu hậu cần như vậy, quân lính người Hán lại tiến hành cướp bóc lương thực từ các bộ lạc ôn hoà hơn, khiến nhiều bộ lạc nổi loạn hơn nữa. Tệ hơn nữa, các quan chức ở đây lại vô cùng tham nhũng, khiến nhiều người dân Hán cũng bóc lột nặng nề, dẫn đến họ bỏ làm ruộng và trở thành các tướng cướp. Vì vậy, ông nói triều đình hãy cho ông nắm giữ đội quân 5,000 người đóng ở phía tây để chống quân du kích, đồng thời đưa ra một danh sách các quan lại tham nhũng cần được loại bỏ.

Tất nhiên là triều đình không quan tâm, bởi lúc này Hoàng Phủ Uy chỉ là một thường dân, và có rất nhiều quan trong triều nhận hối lộ từ các tham quan này.

Năm 146, Lương Ký trở thành nhiếp chính trong triều, như đã nói, Hoàng Phủ Quy lại tiếp tục viết nhiều báo cáo hơn nữa, nói Lương Ký là 1 một quan chức lộng quyền và tham nhũng, khiến ông mất luôn chức quan nhỏ mà ông vừa mới nhận. Nhưng Hoàng Phủ Quy rất thẳng thắn, ông tự cho là mình làm điều đúng, và về quê làm thầy đồ dạy học được 14 năm.

Sau khi Lương Ký bị Lưu Chí giết vào năm 169, Hoàng Phủ Quy một lần nữa được mời về làm quan, ông được chuyển sang phía đông để dẹp yên một cuộc nổi loạn ở Thái Sơn. Sau khi thành công dẹp yên quân nổi loạn, ông may mắn có được cơ hội thăng tiến khi Hộ Khương hiệu uý lúc đó là Đoàn Quýnh, cũng thuộc Tam Minh, tạm thời bị cắt chức do xích mích với thái thú địa phương. Ông được thế chỗ Đoàn Quýnh và quay trở lại Lương Châu, khi đến đây, ông quyết định thương lượng hoà bình với nhiều bộ lạc địa phương, sau đó đẩy mạnh nhiều chính sách cải cách và chống tham nhũng khắp vùng Lương Châu.

Triều đình thấy ông có tài, phong Hoàng Phủ Quy trấn thủ toàn bộ vùng biên giới phía bắc, tuy nhiên, ông biết mình gây thù chuốc oán với nhiều tham quan và hoạn quan nên xin triều đình cho Trương Hoán lên làm thay cho ông, còn mình chỉ làm tướng dưới quyền Trương Hoán.

Đây cũng là lý do Trương Hoán có cơ hội để dẹp yên các bộ tộc Hung Nô, Tiên Ti và Ô Hoàn. Sau khi Trương Hoán không thể về kinh thành nhậm chức Đại tư nông, ông xin triều đình phong Hoàng Phủ Quy thay thế mình. T

rong 8 năm sau đó, ông cũng chỉ giữ một số chức quan nội chính trong triều, Hoàng đế nhiều lần muốn phong ông làm Hộ Khương hiệu uý trở lại, nhưng Hoàng Phủ Quy lúc đó đã quá lớn tuổi, ông chỉ giữ chức này đến năm 174, khi qua đời ở tuổi 71.Mặc dù Hoàng Phủ Quy không có tham gia bất kỳ trận đánh lớn nào, chúng ta cũng có thể thấy ông là người chỉ huy rất giỏi.

Nhưng cái ông giỏi hơn cả là tìm hiểu rõ nguyên nhân xảy ra các cuộc nổi loạn ở Lương Châu, ông đã đúng rằng những bộ lạc này thực chất không có ý chống lại nhà Hán, và nếu triều đình ít tham nhũng và đưa ra những chính sách tốt hơn, các bộ tộc này và dân Hán có thể chung sống hoà thuận với nhau. Vậy nên bất kể khi có một cuộc nổi loạn nào xảy ra, Hoàng Phủ Quy luôn chọn con đường thương lượng trước hết.

Chính sách này không giống như Trương Hoán, người rất thân với Hoàng Phủ Quy, ông trước tiên dùng việc thương lượng trước để chia rẽ các bộ tộc, sau đó dùng lợi dụng việc này cho họ đánh lẫn nhau.Không như cả hai người, Đoàn Quýnh là diều hâu trong Tam Minh Lương Châu, ông tin rằng chỉ có 1 cách duy nhất để giải quyết vấn đề dân du mục là thông qua các chiến dịch đốt sạch, cướp sạch, giết sạch, gần như là diệt chủng.

Đoàn Quýnh sinh ra ở Vũ Uy, ông nội và cha ông cũng là tướng quân chống giặc Hung Nô của nhà Hán, nhờ vậy, Đoàn Quýnh cũng được giáo dục tốt từ bé. Khoảng năm 155, ông được triều đình cho trấn giữ một nước chư hầu ở Liêu Đông, gần khu vực Triều Tiên hiện nay, để chống tộc Tiên Ti. Ông thành công bằng làm giả ngọc tỷ, khiến quân Tiên Ti bị mắc bẫy.

Tuy chiến thắng, nhưng tội làm giả ngọc tỷ là tội nặng, ông bị giáng làm lính thường phải chiến đấu ở biên cương. Nhưng ông là người chỉ huy giỏi nên được nhiều lần thăng chức, cho đến năm 159, khi ông được bổ nhiệm là Hộ Khương hiệu uý.

Đây là lúc ông sử dụng chiến thuật cướp giết của mình để tiêu diệt tất cả các bộ lạc dám chống đối nhà Hán. Ví dụ, trong một chiến dịch vào năm 160, Đoàn Quýnh đánh bại được 1 bộ lạc du mục, sau đó ông xua quân đuổi theo bộ tộc này 40 ngày liên tục giữa mùa đông lạnh lẽo, đội quân của ông dùng tuyết làm nước uống, dùng xác chết của quân địch làm lương thực, trước khi họ đuổi kịp và giết hết 1,600 người của bộ lạc, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em, rồi thiêu sống luôn 90 người đầu hàng quân Hán.

Năm 161, ông bị giáng chức do có xích mích với 1 thái thú ở Lương Châu. Nhưng được phong làm Hộ Khương hiệu uý trở lại vào năm 163, khi tộc Khương một lần nữa cướp phá Lương Châu, khi trở lại làm việc, ông nhanh chóng lên kế hoạch mở một chiến dịch phản công cực lớn, khiến tên tuổi ông vang dội.

Ví dụ, vào mùa xuân năm 165, Đoàn Quýnh mở chiến dịch tấn công vào toàn bộ các bộ lạc Đông Khương, trong vòng 6 tháng liên tục, ông đã giết hết 23,000 người tộc Đông Khương, nô dịch hơn 10,000 người khác và cướp được hơn 8 triệu loài gia súc.Ông liên tục mở nhiều chiến dịch tương tự vào những năm sau, cho đến năm 169, khi ông mở chiến dịch cuối cùng, đuổi toàn bộ tộc Đông Khương khỏi Lương Châu, trong đó ông đánh hơn 180 trận, giết hơn 38,600 quân địch, cướp được hơn 427,500 gia súc, và đến khi chiến dịch này kết thúc, chỉ có 4,000 người Đông Khương là còn sống, bởi vì Đoàn Quýnh đã gần như tận diệt tất cả dân Đông Khương.

Và mặc dù chiến dịch này khiến nhà Hán phải chi hơn 4,4 tỷ ngũ thù, Đoàn Quýnh chỉ mất hơn 400 quân, và được coi là tướng quân thành công nhất nhà Đông Hán.Một năm sau, ông trở về kinh thành và được coi là một anh hùng dân tộc, sau đó ông liên minh với phe hoạn quan và có cuộc sống sa hoa đến tận năm 179, khi phe hoạn quan bảo kê cho ông bị mất quyền, và có nhiều đại thần trong triều báo cáo về việc tham nhũng của Đoàn Quýnh cho Hoàng đế, khiến ông bị tống vào ngục và bị đầu độc chết.

Chiến dịch năm 169 của Đoàn Quýnh giúp bình định được Lương Châu trong nhiều năm, cho đến khi một cuộc khởi nghĩa lớn khác nổ ra ngay giữa lúc loạn Khăn Vàng, khiến nhà Hán không dễ dàng giải quyết được nữa.

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Chúng ta đã nói tới việc Trương Giác và quân Khăn Vàng chuẩn bị cho kế hoạch khởi nghĩa. Và như chúng ta đã nói, năm 183 là năm xảy ra rất nhiều thiên tai, nạn đói, hạn hán, động đất,… việc này được những người theo Thái bình đạo coi là dấu hiệu của sự sụp đổ của nhà Hán. Nhiều người dân ra đường vẽ từ “Giáp Tí” lên các lên nhà của các quan chức triều Hán (kiểu Graffiti ngày nay ấy).

Trong khi đó, Trương Giác cũng gọi Mã Nguyên Nghĩa cùng với 10,000 quân lính ông huấn luyện từ phía nam bí mật lên Nghiệp Thành để hợp binh đánh vào Lạc Dương vào ngày 5 tháng 3 năm 184.

Trương Giác chọn Nghiệp Thành tiền tuyến chính do: thứ nhất, triều đình ít canh giữ và theo dõi khu vực này hơn so với kinh thành Lạc Dương; thứ hai, Nghiệp Thành nằm ở vị trí chiến lược, là cửa ngỏ từ Lạc Dương lên phía bắc Trung Hoa, ở phía Đông Nam có sông Hoàng Hà, phía Tây Bắc có dãy Thái Hành Sơn làm rào chắn, dễ thủ khó công; thứ ba, căn cứ chính của Trương Giác ở Cự Lộc nằm ở phía bắc, cách Nghiệp Thành không xa, do đó nắm giữ khu vực này còn để giữ an toàn cho họ sau cuộc khởi binh.

Sau khi Mã Nguyên Nghĩa hoàn thành nhiệm vụ ở Nghiệp Thành, ông đến Lạc Dương để lãnh đạo các đồ đệ Thái bình đạo khởi nghĩa vào ngày 5 tháng 3. Nhưng vào ngày 15 tháng 2, gần 3 tuần trước cuộc nghĩa, Đường Châu, chịu trách nhiệm cho việc mua chuộc các quan chức nhà Hán, phản bội Trương Giác không rõ lý do và báo cáo kế hoạch của quân Khăn Vàng cho triều đình.

Ngay lập tức, Hoàng đế cho đóng tất cả cổng thành, phong Hà Tiến, anh trai của Hoàng hậu Hà, làm Đại tướng quân để bảo vệ Lạc Dương. Hà Tiến hạ lệnh bắt giữ Mã Nguyên Nghĩa, sau đó ngũ mã phanh thây ông. Không lâu sau đó, hơn 1,000 thành viên Thái bình đạo trong kinh thành bao gồm cả một số quan chức cũng bị bắt giữ và xử trảm.

Triều đình cũng gửi lệnh truy nã đến Cự Lộc để bắt giữ Trương Giác và các đồ đệ của ông.Ngay khi Trương Giác nghe tin, ông cho người thông báo mở cuộc khởi nghĩa ngay lập tức. Quân Khăn Vàng khắp 8 châu nhanh chóng nổi dậy khiến chính quyền địa phương hoàn toàn bất ngờ, bởi họ có rất ít binh lính và không hề chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa lớn như vậy.

Trước khi tiếp tục, chúng ta phải nói chút về khăn vàng và tại sao quân khởi nghĩa lại đeo chúng. Có rất nhiều lý do cho việc này, nhưng lý do hiển nhiên nhất là vì nó rẻ. Mũ thời này chỉ dành cho các tầng lớp quý tộc, và tất nhiên ai cũng muốn đội nón sắt để giữ an toàn cho mình, phần lớn những người theo khởi nghĩa là những nông dân chân lấm tay bùn, đào đâu mà có mũ sắt được? Và để cuộc khởi nghĩa trông có tổ chức hơn, họ phải chọn cùng một màu khăn. Nhưng tại sao lại là màu vàng? Bởi vì theo những người thuộc Thái bình đạo, nhà Hán tượng trưng cho nguyên tố “hoả” trong ngũ hành, và nguyên tố theo sau “hoả” đó là “thổ,” bởi sau khi lửa cháy hết, toàn bộ chỉ còn lại tro và đất, nghĩa là “hoả sinh thổ,” và màu tượng trưng cho “thổ” là màu vàng.

Như vậy, quân khởi nghĩa là hy vọng mình sẽ thay thế nhà Hán.Quay lại với câu chuyện, khi quân Khăn Vàng nổi lên tấn công khắp nơi, họ đã vô cùng thành công. Ngay phía nam kinh thành, quân khởi nghĩa do Trương Mạn Thành chỉ huy chiếm được Uyển Thành, và chém luôn Thái thú Nam Dương.

Ở Dĩnh Xuyên, đội quân do đầu tiên do triều đình phái tới chỉ huy bởi Chu Tuấn bị quân Khăn Vàng của Ba Tài đánh bại và bao vây. Ở Nhữ Nam, quân khởi nghĩa do Bành Thoát chỉ huy cũng giành thắng lợi, khiến người dân khắp Dương Châu hưởng ứng và đốt phá các trụ sở cai trị của nhà Hán.

Việc ba khu vực phía nam và tây Lạc Dương đều rơi vào tay quân Khăn Vàng khiến Hán Linh Đế Lưu Hoành vô cùng lo lắng, bởi mối đe doạ lớn nhất của nhà Hán là đến từ phía bắc, nơi lực lượng của Trương Giác, Trương Bảo và Trương Lương liên tục đánh phá.

Trong khi các thổ phỉ như băng đảng Hắc Sơn và Bạch Ba cũng đứng lên tham gia nghĩa quân Khăn Vàng.Xa hơn ở phía tây, phái Thiên sư Đạo của Đạo giáo do Trương Tu lãnh đạo cũng gia nhập quân Khăn Vàng, và đưa quân đánh phá Ích Châu. Còn ở phía đông, các vùng như Đông Quận và Bắc Hải cũng bị quân Khăn Vàng liên tục bao vây.

Do sự lớn mạnh không ngờ tới của quân Khăn Vàng, Hoàng đế đã làm một điều không tưởng, khi ông mở kho bạc cá nhân và dùng số tiền mình kiếm được qua mua việc quan bán chức để xây dựng quân đội (ổng sẽ tìm cách kiếm tiền lại, yên tâm ). Ông cử Lư Thực đưa quân lên phía bắc, Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn đưa quân xuống phía nam để đánh giặc. Hoàng đế còn tha cho sĩ nhân bị hại trong cuộc “Đảng Cố Chi Hoạ,” đã nói trong phần 3, để phụ việc dẹp loạn, và hạ lệnh cho phép chính quyền địa phương xây dựng lực lượng dân quân riêng để chống giặc Khăn Vàng.

Chúng ta đã nói về cuộc khởi nghĩa dưới góc độ của quân Khăn Vàng, nhưng giờ là lúc nói về cuộc phản công của triều Hán. Sau khi quân khởi nghĩa liên tục chiếm được các vùng như Nam Dương, Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam,… Hán Linh Đế trở nên lo lắng khiến ông mở kho bạc của bản thân để xây dựng quân đội, và phong anh rể mình là Hà Tiến lên làm Đại tướng quân bảo vệ kinh thành.

Tướng quân Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung đưa 40,000 quân mới chiêu mộ xuống phía nam để phản công quân Khăn Vàng. Chu Tuấn đem 20,000 quân đánh thẳng vào Dĩnh Xuyên ở phía đông và bất ngờ bị thất bại ngay trong trận đầu tiên, bởi ông không tưởng tượng nổi quân khởi nghĩa lại đông như vậy, đạo quân của Chu Tuấn ngay sau đó cũng bị bao vây.

Hoàng Phủ Tung, ban đầu dự định đưa quân đến Nam Dương để đánh Trương Mạn Thành, phải quay lại để giải vây cho Chu Tuấn. Khi ông đến được Dĩnh Xuyên, binh lính nhà Hán cũng bị sốc bởi số lượng của quân Khăn Vàng và khuyên ông nên rút lui. Nhưng Hoàng Phủ Tung biết đa số quân của Ba Tài đều không có kinh nghiệm chiến đấu nên trấn tĩnh binh lính và tiếp tục tiến công. Ông dùng hoả công đánh vào doanh trại địch, vừa đúng lúc viện quân từ đội kỵ binh do Tào Tháo chỉ huy mới đến và đạo quân bị bao vây của Chu Tuấn đánh ra, cùng nhau, quân của Hoàng Phủ Tung, Tào Tháo và Chu Tuấn bao vây Ba Tài và tiêu diệt hơn 10,000 quân Khăn Vàng trong một đêm.

Sau chiến thắng này, Dĩnh Xuyên phần lớn đã ổn định, nên kỵ binh của Tào Tháo cũng trở về kinh thành Lạc Dương, trong khi Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung tiếp tục tiến xuống phía nam để hợp quân với Lưu Sủng, cùng dẹp quân Khăn Vàng ở Trần Quận, sau đó tiếp tục tiến đánh đạo quân của Bành Thoát ở Nhữ Nam.

Tại thời điểm này, mối nguy hiểm duy nhất gần kinh thành là đạo quân chiếm giữ Nam Dương của Trương Mạn Thành phía nam và đạo quân Khăn Vàng bao vây Đông Quận phía đông Lạc Dương. Vì vậy, Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung quyết định chia quân tại đây, Chu Tuấn dẫn quân xuống Nam Dương còn Hoàng Phủ Tung đem quân đi đánh Đông Quận.Trong khi Đông Quận được dẹp yên dễ dàng bởi lực lượng địa phương và thái thú ở đây vẫn giữ được thành, Nam Dương lại khó đánh hơn nhiều.

Bởi vì ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa, Trương Mạn Thành đã có thể chiếm được Uyển Thành và giết Thái thú Nam Dương là Trữ Cống. Và mặc dù thái thú mới của Nam Dương là Tần Hiệt đã từ Trường Sa đem quân lên bao vây Trương Mạn Thành, thậm chí giết được Trương Mạn Thành trong trận đánh sau đó, Uyển Thành vẫn nằm trong tay quân Khăn Vàng khi họ bầu chỉ huy mới thay thế là Triệu Hoằng.

Và trong vòng 2 tháng sau đó, Triệu Hoằng cùng 100,000 người theo Khăn Vàng trong thành, bao gồm cả thường dân, phụ nữ và trẻ em, quyết tử thủ. Cho đến khi đạo quân của Chu Tuấn tới hợp binh với Tần Hiệt vào tháng 8, giết được Triệu Hoằng, nhưng quân Khăn Vàng vẫn giữ được Uyển Thành và bầu thủ lĩnh mới là Hàn Trung. Họ giữ thành được 3 tháng nữa thì thất bại và bị đem ra giết sạch vào tháng 11 năm 184, chấm dứt toàn bộ quân Khăn Vàng phía nam Lạc Dương.

Giờ trở lại về lúc mới bắt đầu cuộc khởi nghĩa, và nói về đạo quân phía bắc của Lư Thực rời kinh thành cùng lúc với đạo quân phía nam của Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung. Đạo quân này theo đường thủy dọc sông Hoàng Hà và tiến vào căn cứ của nghĩa quân Khăn Vàng để đánh với Trương Giác.Sau khi vượt sông, quân của Lư Thực đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, trong khi đó, ông đồng thời cũng cho quân mai phục các đường rút về Nghiệp Thành, khiến Trương Giác không thể về đây và buộc phải đưa quân sang phía đông tới Quảng Tông. Lư Thực cho bao vây thành, xây chiến hào xung quanh, bắn phá tường thành và chuẩn bị kế hoạch tấn công.

Nhưng vào tháng 6, một hoạn quan tên Tả Phong từ kinh thành đến để thị sát tiến độ của quân đội, ông bí mật đòi hối lộ từ Lư Thực, Lư Thực vốn là sĩ nhân ghét hoạn quan, tính tình lại thẳng thắn nên từ chối và đuổi ông về.Tả Phong tức giận bèn báo cáo với Hoàng đế rằng Lư Thực chỉ huy quân thụ động, không dám tấn công, và thậm chí còn không muốn cuộc khởi nghĩa kết thúc.

Hán Linh Đế nổi giận hạ lệnh bắt giam Lư Thực và xử án chung thân không khoan hồng. Ông cho Đổng Trác lên thay làm chỉ huy.Bất ngờ thay, cuộc tấn công của Đổng Trác vào Quảng Tông thất bại chiến thuật, và giúp Trương Giác có chút không gian để thở. Không muốn mất mặt, Đổng Trác bỏ vây Quảng Tông, rồi đưa quân lên phía bắc để đánh cánh quân của Trương Bảo nhưng cũng thất bại và buộc phải rút lui sau 2 tháng. Và triều đình lại một lần nữa phải đổi chi huy.

Lần này, vào tháng 8 năm 184, khi Hoàng Phủ Tung đã bình định được Đông Quận, triều đình cử ông lên phía bắc để thay thế Đổng Trác, còn về phần Đổng Trác sau đó bị triệu về Lạc Dương, bị cắt chức và chờ ngày xử tội. Khi Hoàng Phủ Tung đến đây, ông sử dụng chiến thuật của Lư Thực để bao vây Trương Giác, Trương Giác sau đó chết vì bệnh khi đang bị vây.

Mặc dù Lương Giác chết, Hoàng Phủ Tung vẫn chưa thể chiếm thành ngay được, khi quân Khăn Vàng bầu em Trương Giác là Trương Lương lên làm chỉ huy.Vì vậy Hoàng Phủ Tung giả vờ rút lui, khiến Trương Giác không đề phòng và trở nên chủ oan, ông ra lệnh đuổi theo, hy vọng tiêu diệt được “tàn quân” của triều Hán.

Nhưng đây là một cái bẫy, nhằm dụ Trương Lương ra khỏi thành, quân của Hoàng Phủ Tung phản công và nhanh chóng giết Trương Lương, và với đội quân bên ngoài thành bị tiêu diệt, 50,000 người bao gồm phụ nữ và trẻ em trong thành nhảy xuống sông tự sát tập thể. Hoàng Phủ Tông lấy lại được Quảng Tông, hạ lệnh đào mộ Trương Giác chém đầu, sau đó dâng thủ cấp của Trương Giác và Trương Lương lên cho triều đình.

Giờ anh em họ Trương chỉ còn lại duy nhất là Trương Bảo, chỉ huy đạo quân gồm 100,000 người bao gồm cả thường dân, phụ nữ và trẻ em, xa hơn nữa lẻ phía bắc, mất tinh thần và suy yếu ở Hạ Khúc Dương. Trương Bảo không thể chống cự và bị Hoàng Phủ Tung tiêu diệt. Không một ai theo quân Khăn Vàng được tha mạng, và tất 100,000 người đều bị giết.

Và nhằm ghi nhớ trận đánh này, Hoàng Phủ Tung hạ lệnh xây kinh quan, một ngọn đồi từ xác và xương của quân địch để cho thấy sức mạnh của nhà Hán và cảnh cáo tất cả những ai muốn nổi loạn lần nữa.Và như vậy, cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng nổ ra vào cuối tháng 2 đã bị dập tắt vào tháng 11 năm đó, khi quân đội triều đình đánh bại được phần lớn nghĩa quân. V

à mặc dù một số quân địa phương vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn như quân của Trương Yên ở núi Hắc Sơn, họ giảm mạnh các hoạt động của mình để không bị triều đình để ý tới và chờ cơ hội khác để tiếp tục nổi loạn.Trong tất cả những tướng quân tham gia dẹp loạn Khăn Vàng, Hoàng Phủ Tung được ban thưởng nhiều nhất, ông được phong làm Châu mục Ký châu, căn cứ cũ của anh em họ Trương để quản lý khu vực.

Và ông lại chứng minh mình cũng cái trị rất tốt, Hoàng Phủ Tung xin triều đinh miễn thuế cho người dân trong 1 năm để trấn an nhân dân và giúp nền kinh tế hồi phục sau 9 tháng chiến tranh liên tục.

Cùng lúc, Hoàng Phủ Tung cũng xin Hoàng đế tha cho Lư Thực, Hán Linh Đế vốn vui mừng sau khi đã dẹp được loạn bèn đồng ý, tha cho Lư Thực và còn cho ông trở lại làm quan trong triều.

Về phần Chu Tuấn sau khi dẹp loạn ở Nam Dương cũng được ban thưởng hậu hĩnh và ngay cả Đổng Trác cũng được tha tội vào tháng 12 vì Hoàng đế rất vui.Vui vẻ chưa được bao lâu thì tin xấu lại tiếp tục đến kinh thành vào cuối mùa đông năm đó, khi mà một cuộc khởi nghĩa mới ở phía tây diễn ra, khi mà thành trì lớn ở Lương Châu là Kim Thành rơi vào tay của tộc người Khương.

Điều làm tin này trở nên chấn động là vì không như những cuộc khởi nghĩa trước chỉ là của người Khương, lần này có cả tin quân đội Hán cũng nổi loạn và mở cổng Kim Thành cho quân Khương tiến vào và gia nhập khởi nghĩa.

Mọi việc ngày càng trở nên tệ hơn vào mùa đông năm đó, một tuần sau khi có tin Kim Thành bị mất, tin tức khác cũng tới tai kinh thành là Linh Trưng, giữ chức Hộ Khương Hiệu uý, tức chức quan cao nhất Lương Châu, cũng bị giết bởi chính quân lính của mình, sau khi họ quyết định chuyển sang khởi nghĩa.Khi biết được lực lượng địa phương ở Lương Châu không thể nào chống cự nổi được, triều đình lại một nữa tìm cách xây dựng lực lượng mới và đưa quân sang phía tây.

Cuộc khởi nghĩa của tộc người Khương và quân Hán đào ngũ ở Lương Châu sẽ khó dẹp yên hơn nhiều nếu so với cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng.

Để biết tại sao họ lại khởi nghĩa và quan trọng hơn là tại sao quân lính người Hán đào ngũ gia nhập với tộc Khương, trở lại với phần sau, chúng ta sẽ quay trở lại Lương Châu nhé.

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Như đã nói, triều đình vui vẻ ăn mừng chiến thắng trước quân Khăn Vàng chưa được bao lâu thì tin tức về 1 cuộc khởi nghĩa khác ở Lương Châu lại truyền đến kinh thành, ban đầu, cũng chả ai quan tâm lắm, bởi Lương Châu trước đây khởi nghĩa vốn là chuyện bình thường. Nhưng ít lâu sau, tin về cái chết của Hộ Khương Hiệu uý và việc Kim Thành bị chiếm khiến nhiều người bắt đầu lo lắng.

Để có thể hiểu được, chúng ta phải rời kinh thành Lạc Dương và đến Lương Châu để xem lý do của cuộc khởi nghĩa này là gì. Cuộc khởi nghĩa chính thức nổ ra vào tháng 11 năm 184, khi quân Khăn Vàng đang dần bị tiêu diệt, lãnh đạo ban đầu gồm 2 người là Bắc Cung Bá Ngọc và Lí Văn Hầu, làm việc cho quân “Hoàng Trung nghĩa tòng” (湟中义从), tức quân trợ chiến đến từ khu vực Hoàng Trung, “Hoàng Trung” là 1 khu vực phía tây Lương Châu, nằm gần phía bắc Kim Thành, còn “nghĩa tòng” cũng giống như quân trợ chiến (Auxilia) trợ giúp cho Binh đoàn La Mã, tức lính từ các bộ lạc khác phục vụ trong quân đội nhà Hán ở phía Tây.

Và nếu mọi người nhìn vào quân đội của nhà Hán đóng giữ Lương Châu, quân trợ chiến thực tế là chiếm số lượng đông nhất; theo sau là các phạm nhân phạm tội từ các vùng khác, được trao cho cơ hội để làm việc cho quân đội; tiếp theo là lính chính quy từ các châu khác thay phiên nhau trấn giữ Lương Châu; cuối cùng là kỵ binh chính quy của nhà Hán từ 6 trại nuôi ngựa của triều đình khắp Lương Châu. Có thể mọi người nghĩ đội kỵ binh của nhà Hán ở đây phải rất lớn, nhưng thực tế ngựa nuôi từ 6 trại này phải được chuyển đi các châu còn lại để trang bị cho những đội quân khác. Vì vậy quân đội Hán đóng tại Lương Châu buộc phải dựa vào kỵ binh của quân trợ chiến từ các bộ tộc khác, ngoài ra kỵ binh của những bộ tộc này còn tinh nhuệ hơn nhiều so với kỵ binh quân Hán.

Và vì lính trợ chiến chiếm một phần rất lớn trong quân đội nhà Hán ở Lương Châu, cũng cần phải nói là có tới 2 loại quân trợ chiến, thứ nhất là “nghĩa tòng” (义从), loại mà Bắc Cung Bá Ngọc và Lí Văn Hầu phục vụ, tức quân trợ chiến với chỉ huy là người Hán, loại thứ hai là “quy tòng” (归从), tức quân trợ chiến được người của bộ lạc mình chỉ huy. Trong phần 7, khi chúng ta nói đến Lương Châu Tam Minh, Trương Hoán lúc làm Hộ Khương Hiệu uý thích sử dụng quy tòng hơn, do quân Khương sẽ dễ thương lượng và đầu hàng nếu sau đó tiếp tục được người của tộc mình chỉ huy. Nhưng khi Đoàn Quýnh lên thay, ông là diều hâu trong số 3 người này, muốn tiêu diệt toàn bộ tộc người Khương, nên ông chỉ sử dụng duy nhất loại nghĩa tòng, và chỉ huy người Hán đó do đích thân Đoàn Quýnh chỉ điểm. Không chỉ cho họ chỉ huy người Hán, ông còn cho họ làm những nhiệm vụ nguy hiểm nhất trên chiến trường, trong những chiến dài ngày, khi kết thúc, quân ông thường không còn bất cứ lính trợ chiến nào sống sót, trong khi quân chính quy nhà Hán gần như không chịu bất cứ thiệt hại gì. Và chính sách trên của Đoàn Quýnh vẫn còn kéo dài sau khi ông được triệu về kinh thành làm quan bởi cấp dưới của mình vẫn giữ các chức quan trọng tại Lương Châu, họ chỉ thích sử dụng duy nhất nghĩa tòng.

Tệ hơn nữa, Thứ sử Lương Châu lúc bấy giờ là Tả Xương liên tục cắt xén tiền lương và hậu cần của quân đội đem bán, và lý do ông làm như vậy là vì ông đã bỏ tiền ra mua chức quan này và đang cố lấy lại vốn, và nếu mọi người còn nhớ từ phần 5, Hán Linh Đế Lưu Hoành bán giá gấp đôi cho các chức quan địa phương làm việc xa kinh thành nên số tiền này là rất lớn. Quay trở lại với việc Tả Xương cắt xén tiền lương của quân lính, với số tiền dư còn lại mà ông không lấy, Tả Xương sẽ đưa xuống cho Hộ Khương Hiệu uý Linh Trưng để trả lương cho lính. Và vì số tiền này bao giờ cũng ít, đoán xem ai không được trả lương nào? Đúng, lính trợ chiến vốn không ưa gì chỉ huy người Hán, phải làm những nhiệm vụ nguy hiểm nhất giờ còn không được trả lương. Nên tất nhiên, họ nổi loạn.

Và vì họ ở gần ngay Kim Thành, sau khi kiểm soát được quân đội, họ muốn chiếm được thành này. Sau đó, quân khởi nghĩa người Khương giết Hộ Khương Hiệu uý Linh Trưng, nhưng một số chỉ huy quân đội người Hán được tha mạng và bị bắt giữ làm con tin, trong số những người này là Biện Chương và Hàn Toại. Khi quân khởi nghĩa tới vây Kim Thành, Thái thú Kim Thành bấy giờ là Trần Ỷ nghĩ đây chỉ là cuộc nổi loạn nội bộ, ông cho rằng lý do họ khởi binh cũng chỉ là do thiếu tiền lương, nên ra khỏi thành và tới doanh trại của nghĩa quân thương lượng. Nhưng Bắc Cung Bá Ngọc không có ý muốn thương lượng và giết luôn Trần Ỷ, sau đó Bắc Cung Bá Ngọc dùng cái chết của Trần Ỷ để uy hiếp Biện Chương và Hàn Toại, nói rằng “giờ tao có thả tụi mày thì triều đình cũng không có tin tụi mày, nói tụi mày giết Trần Ỷ, chi bằng gia nhập quân tụi tao đi còn có cơ hội sống sót 🐧,” Biện Chương và Hàn Toại sau khi suy nghĩ thì quyết định gia nhập nghĩa quân. Bắc Cung Bá Ngọc trước đây là lính trợ chiến dưới quyền Biện Chương còn quyết định nhường chức chỉ huy cho ông.

Biện Chương sau khi lãnh đạo nghĩa quân thì dễ dàng chiếm Kim Thành bởi thái thú giờ đã chết. Sau đó, Biện Chương đưa quân tiến vào Hán Dương nhằm bắt thứ sử Tả Xương, người cắt xén tiền lương quân đội làm mở đầu cuộc khởi nghĩa. Bảo vệ Hán Dương là Hạp Huân, Tả Xương và Hạp Huân thực tế rất ghét nhau, vì Hạp Huân cũng giống như Lư Thực, là người thẳng thắn và coi thườnng những quan chức tham nhũng như Hạp Huân. Nhưng với vai trò là Thái thú Hán Dương, ông biết ông phải có trách nhiệm bảo vệ nơi này. Ngược lại, Tả Xương là Thứ sử cả Lương Châu lại quyết định đưa quân rút khỏi nơi này, khiến quân phòng thủ của Hạp Huân bị suy yếu đi, ông hy vọng quân khởi nghĩa sẽ giết Hạp Huân bởi Hạp Huân là người lúc nào cũng báo cáo lên triều đình về việc tham nhũng của mình. Nhưng Hạp Huân không chỉ giữ được Hán Dương mà còn đẩy nghĩa quân về tận Kim Thành.

Tuy nhiên, quân khởi nghĩa chỉ thua một trận đánh, không phải cả cuộc chiến, quân của họ ngày càng đông hơn khi được nhiều bộ tộc người Khương gia nhập. Biện Chương quyết định mở một cuộc tấn công nữa ở phía bắc vào quân quân của Hạ Dục, Hộ Khương Hiệu uý mới được bổ nhiệm, Hạ Dục trước đây từng là tướng thân cận dưới quyền Đoàn Quýnh, quân Khương thì căm thù Đoàn Quýnh nên chọn mục tiêu này là đương nhiên. Khi bị quân khởi nghĩa bao vây, Hạ Dục nhiều lần xin triều đình cho viện quân đến ứng cứu, nhưng do mùa đông sắp tới, không đội quân nào của triều đình có thể đến kịp cả. Khi dường như không còn hy vọng, quân của Hạp Huân một lần nữa đến cứu giúp.

Nhưng quân khởi nghĩa quá đông và quân của Hạp Huân dần bị áp đảo. Do Hạp Huân là một trong những quan chức hiếm hoi không tham nhũng, các bộ lạc người Khương và chỉ huy người Hán không muốn nhìn thấy ông chết, trên chiến trường họ xin ông quay trở về Hán Dương. Nhưng Hạp Huân không nghe theo, ông chỉ tay vào một gốc cây, rồi xin nghĩa quân nếu ông chết hãy chôn cất ông ở đó, sau đó Hạp Huân quay trở về và lên kế hoạch mở một cuộc tấn công để thoát khỏi vòng vây, quân của ông xông ra tấn công không lâu sau. Nhưng Hạp Huân không chết, vì Biện Chương ra lệnh giết hết tất cả những người khác trừ Hạp Huân, nghĩa quân sau đó phải bắt trói ông và dùng vũ lực trả ông về Hán Dương, ngoài ra còn tìm cách không cho ông tự sát. Quân khởi nghĩa ngay sau đó giết được Hạ Dục và kiểm soát toàn bộ phía bắc Lương Châu.

Cho đến tận thời điểm này, triều Hán gần như không có động tĩnh gì, bởi họ hy vọng cuộc khởi nghĩa sẽ tự kết thúc như những lần trước đó. Vì vậy, triều đình chỉ đơn giản là đổi thứ sử vào năm 185, và hạ lệnh cho Hoàng Phủ Tung đưa quân trấn thủ Trường An phòng khi mọi việc nằm ngoài tầm kiểm soát. Và thứ sử mà nhà Hán cử đến thay thế cho Tả Xương là Tống Toàn, một nho sĩ nổi tiếng, người một mực tin rằng Lương Châu khởi nghĩa là vì người dân ở đây ít được học hành, và nếu ông có thể dạy văn thơ và nho giáo cho họ, mọi việc sẽ được giải quyết. Vì vậy việc làm đầu tiên của ông khi đặt chân đến đây là xin triều đình cả hàng nghìn bản Hiếu Kinh để ông có dạy dân địa phương (LOLLL 🐧).

Tất nhiên khi tấu sớ của ông đến Lạc Dương, nhà Hán không có bị khùng và thay ông bằng một thứ sử khác tên Dương Ung, người mua chức quan này (LOLLL 🐧 x2), ông cho thu mua lương thực đem bán để lấy lại vốn, gây ra một nạn đói khủng khiếp ở Lương Châu. Hạp Huân một lần nữa trở thành anh hùng khi dùng tài sản riêng của mình để mua lương thực cứu đói cho dân.

Cuối cùng, triều đình cũng quyết định đúng một lần thay Dương Ung bằng Phụ Nhiếp, một quan chức trẻ và có ước mơ giúp nhà Hán, ngoài ra còn cho ông lãnh đạo một đội quân. Nhưng khi nhiều lần tiếp xúc với Phu Nhiếp, Hạp Huân nhận ra cấp dưới của ông cũng tham nhũng như những quan chức khác, ông nản chí, từ quan về quê

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Để hiểu rõ hơn, chúng ta phải quay ngược thời gian một chút về năm 185, khi triều đình nhà Hán lần đầu phản ứng với cuộc khởi nghĩa.

Lúc bấy giờ, Biện Chương là chỉ huy nghĩa quân, và cuộc tấn công ông vào thủ phủ Hán Dương bắt đầu làm cho Hoàng đế lo lắng, vì nếu Hán Dương rơi vào tay quân nổi loạn thì mục tiêu tiếp theo rất có thể là Trường An, cố đô thời Tây Hán. Vì vậy vào tháng 3 năm 185, Hán Linh Đế hạ lệnh cho Hoàng Phủ Tung đem quân đến trấn thủ Trường An, phòng trường hợp quân khởi nghĩa tràn chiếm được Hán Dương mở đường tấn công Trường An.

Tuy nhiên, Hoàng Phủ Tung lại không có đất dụng võ. Bởi như phần trước đã nói, Cái Huân (phần trước mình nhầm là Hạp Huân) đã bảo vệ thành công được Hán Dương và buộc Biện Chương phải đưa quân tấn công nơi khác. Và vào tháng 7 cùng năm đó, một “chuyến thăm” từ hoạn quan khiến Hoàng Phủ Tung bị giáng chức giống như Lư Thực trước kia, bởi Hoàng Phủ Tung cũng là sĩ nhân ngay thẳng và từ chối đưa tiền đút lót cho hoạn quan.

Vì vậy vào tháng 8 năm 185, với việc Hoàng Phủ Tung bị sa thải và nghĩa quân dần chuyển hướng tiến công lên phía bắc thay vì đánh vào Trường An, các đại thần trong triều bắt đầu tranh cãi với nhau nên làm gì tiếp theo. Một bên đứng đầu là tân Tư đồ Thôi Liệt cho rằng chính sách tốt nhất cho Trung Hoa hiện tại là rút toàn bộ quân đội và bỏ Lương Châu, bởi đất nước hiện tại còn đang rất yếu do hậu quả của cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng chưa đầy 1 năm trước.

Trước khi tiếp tục thì chúng ta hãy nói chút về Thôi Liệt, bởi đây là một nhân vật rất thú vị, ông trước đây từng giữ một chức vị trong Cửu khanh, nhưng lại muốn thăng chức lên làm Tam công. Và trong lần đầu tiến cử Thái uý, một trong ba chức thuộc Tam công, cha của Tào Tháo là Tào Tung đã chiến thắng trước Thôi Liệt bằng cách trả gấp 3 lần giá mua chức gốc. Và nếu mọi người còn nhớ trong phần 5, Tào Tung thực chất còn không muốn giữ chức quan này, mà chỉ mua với giá trên trời rồi vài tháng sau từ quan để Hoàng đế bán tiếp, mục đích là để lấy lòng Hán Linh Đế vì kho bạc tư của Linh Đế đã gần như trống rỗng sau cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng. Vì bước đi này, Tào Tung lọt vào mắt xanh của Hoàng đế, và được ban thưởng hậu hĩnh, sau đó cho về hưu xuống vùng phía nam an nhàn, tránh xa khỏi loạn lạc ở kinh thành.

Về phần Thôi Liệt, phải nói là ông không phải một quan chức tệ, vì cũng tự bản thân lên tới Cửu khanh rồi, và nếu hệ thống chính trị nhà Hán trong sạch một chút, rất có thể ông đã dùng tài năng mình lên được tới chức Tam công. Nhưng vì Lưu Hoành có vẻ đang kinh doanh chứ không phải trị nước, Thôi Liệt tranh giành với các quan chức tham nhũng như Tào Tung được. Vì vậy sau khi để lỡ mất cơ hội lần thứ nhất, Thôi Liệt cho rằng lần này mình phải thông minh hơn, ông dùng quan hệ của mình với nhũ mẫu của Linh Đế để xin Lưu Hoành giảm giá 50%, bởi ông không có đủ tiền để trả cho cái giá 10 triệu ngũ thù cho chức Tư đồ. Hoàng đế cuối cùng cũng chịu đồng ý, nhưng không hài lòng với sự “keo kiệt” của Thôi Liệt. Phe sĩ nhân trước giờ coi trọng tài năng của ông cũng trở nên thất vọng, coi ông giờ là quan chức tham nhũng, ngay cả con ông là cũng gọi ông là “đồng xú” (銅臭) từ để chỉ những vị quan tham nhũng.

Vì vậy khi Thôi Liệt nói muốn rút quân khỏi Lương Châu, rất nhiều sĩ nhân, bao gồm cả Nghị lang Phụ Nhiếp, đều phản đối, họ cho rằng nhà Hán đã bỏ quá nhiều mồ hôi và xương máu trong 400 năm qua chỉ để có được khu vực này, không thể nói bỏ là bỏ. Công bằng mà nói thì kinh tế nhà Hán lúc đó đã kiệt quệ vì cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng, và vì thời điểm này lại gần mua thu hoạch, huy động thêm 1 đội quân nữa sẽ ảnh hưởng tới sản lượng nông nghiệp của nhà Hán.

Mặc dù vậy, phe sĩ nhân chiến thắng cuộc tranh luận, và triều đình ngay lập tức hạ lệnh huy động một đội quân mới tiến vào dẹp loạn Lương Châu. Hoàng đế phong Trương Ôn làm Xa kỵ Tướng quân chỉ huy đội quân, dưới trướng là Phá kỵ Tướng quân Đổng Trác và Đãng khấu Tướng quân Chu Thận. Tham gia đội quân này gồm cả Tôn Kiên, lúc bấy giò là tướng dưới quyền Chu Thận, nhưng chức vụ nhỏ không kể, mặc dù có đưa ra một số chiến lược hay nhưng đều bị cấp trên bác bỏ.

Quân Hán ngay lập tức mở nhiều chiến dịch tấn công nhưng thường hoà hoặc thua Biện Chương, do ông quen thuộc với địa hình ở đây hơn. Nhưng vào tháng 11, một ngôi sao băng bay qua trại lính của người Khương, khiến tộc người này hoảng sợ, họ tin rằng đây là dấu hiệu của các vị thần đang tức giận với họ. Đổng Trác là người sinh ra, lớn lên và kết thân với tộc Khương biết rằng họ sợ hiện tượng này, bèn khuyên Trương Ôn phản công.

Đội quân nhà Hán chiến thắng được vài trận khiến nghĩa quân bỏ chạy thì Trương Ôn trở nên chủ quan và chia quân theo 6 hướng đuổi theo nhằm diệt sạch quân nổi loạn. Cả 6 đạo quân đều thất bại, chỉ có duy nhất đạo quân của Đổng Trác là rút lui thành công và bảo toàn được lực lượng, còn 5 đạo quân kia hoàn toàn bị tiêu diệt. Nên trong khi tất cả chỉ huy đều bị trị tội, Đổng Trác là người chịu tội nhẹ nhất. Với thất bại này, quân đội Hán rơi vào kiệt quệ và không thể tiến vào Lương Châu trong một thời gian dài.

Nhưng về phía quân khởi nghĩa ở Lương Châu cũng có một số sự kiện thú vị diễn ra, khi Biện Chương lâm bệnh và qua đời vào năm 187, mở ra một cuộc nội chiến giành quyền kiểm soát nghĩa quân giữa Bắc Cung Bá Ngọc và Lý Văn Hầu. Hàn Toại nhân cơ hội đảo chính và giết luôn cả 2 người.

Sau khi giành kiểm soát nghĩa quân, giờ đã lên tới 100,000 người, Hàn Toại tiếp tục lên kế hoạch mở một cuộc tấn công mới vào Hán Dương. Lần này, Hán Dương được trấn thủ bởi Thứ sử Lương Châu Cảnh Bỉ và Thái thú Hán Dương Phụ Nhiếp, được triệu đến Lương Châu sau khi tranh luận thắng Thôi Liệt tại triều đình, dưới trướng họ là 2 tướng quân tên Mã Đằng và Vương Quốc.

Ban đầu, vào tháng 4 năm 187, tân Thứ sử Cảnh Bỉ ra sức tập hợp tàn dư lực lượng quân Hán bằng cách viết thư xin 6 thái thú tại Lương Châu đem quân đi đánh Hàn Toại, vì ông nghĩ nghĩa quân đang suy yếu sau cuộc nội chiến. Nhưng thật chất nghĩa quân vẫn còn đang rất mạnh với quân số áp đảo. Và có tới 2 thái thú đào ngũ và đem quân gia nhập khởi nghĩa ngay lập tức để bảo vệ mạng sống thay vì phải chiến đấu cùng Cảnh Bỉ. Về phần Cảnh Bỉ, ông cũng bị giết bởi người của mình do Vương Quốc dẫn đầu, giờ cũng chọn gia nhập nghĩa quân để bảo vệ mạng sống của mình.

Tại thời điểm này, Lương Châu về cơ bản đã vượt quá tầm kiểm soát của nhà Hán. Bởi quân đội Hàn Toại không chỉ ngày một lớn mạnh, mà ông còn kiểm soát phần lớn địa bàn tại Lương Châu. Tệ hơn nữa, khi Vương Quốc quyết định đào ngủ và giết Cảnh Bỉ, lực lượng đào ngũ người Hán cũng rơi vào tay ông. Vương Quốc dùng lực lượng này để bao vây tàn dư của quân Phụ Nhiếp, hiện tại vẫn cố thủ tại Hán Dương, lúc này, Mã Đằng cùng các tướng quân khác cũng thấy không còn lý do gì để tiếp tục tử thủ, quyết định gia nhập nghĩa quân và giết luôn Phụ Nhiếp. Lương Châu lúc này chính thức rơi vào tay quân khởi nghĩa.

Lúc bấy giờ có 2 phe phái chính trong nghĩa quân, thứ nhất là quân người Hán đào ngũ tham gia khởi nghĩa, đứng đầu là Vương Quốc và Mã Đằng; thứ hai là tộc người Khương tham gia nghĩa quân, đứng đấu là Hàn Toại (nhưng bản thân ông lại là người Hán). Hai phe phái này quyết định liên minh lực lượng với nhau và tôn Vương Quốc lên làm chỉ huy.

Và nghĩa quân này, giờ do Vương Quốc chỉ huy, bắt đầu tấn công các vùng nằm ngoài Lương Châu. Do vậy, lần đầu tiên kể từ lần thất bại của Trương Ôn, nhà Hán cho xây dựng một đội quân nữa vì giờ quân khởi nghĩa đang đe doạ đến Trường An. Hán Linh Đế buộc phải dùng lại Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác, cho mỗi người chỉ huy 2 vạn quân trấn giữ Trường An.

Mặc dù có sự khác biệt giữa chiến lược của Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác, Hoàng Phủ Tung vẫn là cấp trên của Đổng Trác nên có thể buộc quân đội sử dụng chiến lược của mình. Cho dù đánh đuổi được quân khởi nghĩa và bảo vệ được Trường An, mối quan hệ giữa Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác dần trở rạn nứt, và sẽ ảnh hưởng tới một số sự kiện sau đó khi Đổng Trác nắm quyền triều chính.

Nhưng đối với quân khởi nghĩa, thất bại của Vương Quốc khiến ông phải rút toàn bộ quân đội về lại Lương Châu. Thất bại này cũng dẫn tới một số vấn đề khác, vì Vương Quốc giờ bị coi là chỉ huy yếu kém và không xứng đáng lãnh đạo nghĩa quân, nên nội chiến diễn ra. Và vào cuối năm 189, nghĩa quân chia làm 3 phe phái chính, do Mã Đằng, Hàn Toại và Tống Kiến lãnh đạo.

Trong khi quân Hán thành công bảo vệ được Trường An, họ không thể tiến sâu vào Lương Châu để tiêu diệt hoàn toàn nghĩa quân, bởi vì Hán Linh Đế băng hà vào cùng năm đó, và một chuỗi các sự kiện chính trị tại Lạc Dương một lần nữa đẩy đất nước rơi vào đại loạn. Và như mọi người đã biết, nhờ vào sự hỗn loạn đó, Đổng Trác nắm quyền và dời đô từ Lạc Dương về Trường An do bị liên quân của Viện Thiệu đuổi đánh.

Việc dời đô này có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc Khởi nghĩa Lương Châu, bởi giờ đây nó không còn là cuộc nổi loạn ở biên cương nữa, mà Đổng Trác và quân đội của mình giờ đã tập trung ở Trường An, nằm sát ngay Lương Châu. Nghĩa quân biết rõ điều đó, Mã Đằng và Hàn Toại cũng biết mình trước đây vốn là sĩ quan trong quân đội nhà Hán, có thể đầu hàng và quy phục Đổng Trác vốn đang cần đồng minh, nên họ quyết định làm vậy và được Đổng Trác phong làm quan. Nhưng Tống Kiến không thích làm việc cho triều đình, quyết định đưa quân đội về phía tây vào đất của người Khương và thành lập một vương quốc nhỏ ở đây trong vòng 30 năm, bởi cả 3 nước thời Tam quốc không quan tâm đến sự tồn tại của vương quốc nhỏ bé này.

Nhà hán tồn tại bao nhiêu năm

Chúng ta bắt đầu loạt bài này với cái chết của một Hoàng đế, nên cũng sẽ kết thúc loạt bài này với cái chết của một Hoàng đế. Và đối với trường hợp của Hán Linh Đế Lưu Hoành, việc ông băng hà cũng là điểm chấm dứt cuối cùng của nhà Hán, bởi 2 người con của ông là Lưu Biện và Lưu Hiệp sau này không nắm được thực quyền và sống cả đời làm Hoàng đế bù nhìn.

Trước khi bắt đầu cũng cần phải làm rõ về Lưu Hoành một chút, bởi phần lớn bài viết trong loạt bài này thường tập trung nói về việc Linh Đế tham nhũng như thế nào. Và đúng là những điều ấy hoàn toàn có thật, chúng ta cũng không thể đổ hết mọi trách nhiệm lên đầu ông được.

Chúng ta cần phải nhớ rằng ông chỉ là một cậu bé mồ côi cha, vô tư vô nghĩ lúc được ngoại thích Đậu Vũ đưa lên làm Hoàng đế bù nhìn. Hơn thế nữa, ông lại được hoạn quan nuôi dưỡng, những người này làm ảnh hưởng đến việc giáo dục của ông ngay từ bé. Và Linh Đế cũng rất tin tưởng họ, bởi ông cho rằng hoạn quan là người cứu mình khỏi trở thành Hoàng đế bù nhìn của ngoại thích Đậu Vũ.

Thật ra nếu so sánh với tiên đế Lưu Chí và hậu đế Lưu Biện, Lưu Hiệp, chúng ta có thể thấy Hán Linh Đế là người có nhiều quyền lực nhất, nhờ có các hoạn quan của mình. Nói vậy là để mọi người biết việc nhà Hán sụp đổ là do hệ thống chính trị mục rỗng chứ không riêng gì Hoàng đế.

Nói về ngoại thích nắm giữ quyền lực, đối với Lưu Hoành mà nói, cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng đã khiến Hoàng đế vô cùng bất ngờ, vốn trước đây nghĩ Trung Hoa đang vô cùng yên ổn và chỉ lo sống hưởng thụ. Để đối phó với quân Khăn Vàng càng ngày càng tiến gần đến kinh thành, Hoàng đế đã thay mối nguy ngắn hạn bằng mối nguy dài hạn, bằng cách phong anh rể của mình là Hà Tiến làm Đại tướng quân, chỉ huy Ngự Lâm Quân và Ngũ Doanh để bảo vệ Lạc Dương.Ban đầu thì việc này khá hợp lý, bởi Hà Tiến là người ít có thể phản bội ông nhất, và gia tộc Hà vốn nợ Hoàng đế rất nhiều ân tình.

Do cha của Hà Tiến vốn chỉ là dân thường, kiếm sống bằng nghề bán thịt, mẹ ông mất sớm nên cha tái hôn và sau đó sinh 1 người con trai 1 người gái, sau này là Hà Hoàng hậu. Mặc dù Hà Tiến và Hà Hoàng hậu chỉ là anh em cùng cha khác mẹ, nhưng do cha họ mất sớm nên Hà Tiến phải đi làm từ nhỏ để nuôi em mình, 2 người trở nên vô cùng thân thiết. Từ dân thường và được lên làm Đại tướng quân và Hoàng hậu, tất nhiên nhà Hà rất mang ơn cứu giúp của Hoàng đế. Lưu Hoành và Hà Hoàng hậu cũng có người con cả là Lưu Biện, nên họ cũng không cần phải lo về chuyện nối ngôi nữa.

Nhưng Lưu Hoành có 1 người con khác là Lưu Hiệp, nhỏ hơn Lưu Biện 5 tuổi, lại được Hoàng đế yêu thích hơn, do vốn có tố chất thông minh từ nhỏ. Hán Linh Đế muốn bí mật muốn đi ngược lại với truyền thống, và cho Lưu Hiệp lên làm Hoàng đế sau này. Có thể thấy vì sao để Hà Tiến là Đại tướng quân có thể là mối nguy cho Hoàng đế sau này.

Ban đầu, mọi người có thể nghĩ đây là xung đột giữa Hoàng đế và gia tộc Hà, đứng đầu Hà Hoàng hậu và Hà Tiến. Trong thực tế, cả 3 nhân vật này đều đại diện cho 3 phe phái khác nhau, bởi Hà Hoàng hậu cũng là một nhân vật vô cùng quyền lực và đã xây dựng một liên minh với các hoạn quan, những người anh trai bà muốn tiêu diệt.Như vậy về vấn đề ai sẽ nối ngôi, Hà Tiến và Hà Hoàng hậu đều cùng phe với nhau, nhưng đối với những vấn đề khác như quyền lực của hoạn quan và sự kiện “Đảng cố chi hoạ” đã nói trong phần 3, Hà Hoàng hậu và Hoàng đế lại có chung ý kiến với nhau, trong khi Hà Tiến là một người giữ chức vị cao trong triều lại liên minh với các sĩ nhân và các quý tộc như Tào Tháo và Viên Thiệu.

Tuy nhiên, có thể thấy dù là vấn đề nào đi nữa thì Lưu Hoành và Hà Tiến đều đối lập với nhau, và vì Hoàng đế không thể phế truất Hà Tiến khỏi chức Đại tướng quân mà không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ông và Hà Hoàng hậu, Linh Đế phải nghĩ ra cách khác để làm giảm binh quyền của Hà Tiến. Vì vậy vào tháng 8 năm 188, ông hạ lệnh thành lập một đội quân cho riêng mình, đứng đầu là “Tây Viên Bát Hiệu uý” (西园八校尉), lấy cớ là để là dẹp yên các cuộc nổi loạn diễn ra liên tục như ở Lương Châu và U Châu, nhưng thực tế Lưu Hoành bí mật muốn đội quân này làm suy yếu, thậm chí giết luôn Hà Tiến và đảm bảo Lưu Hiệp sẽ lên ngôi sau khi ông mất.

Như cái tên đã nói, Lưu Hoành chọn ra 8 tướng lĩnh chỉ huy đội quân, và để Hà Tiến không phải nghi ngờ, Linh Đế đồng thời cũng đưa một số sĩ nhân và quý tộc thân thích với ông lên làm chỉ huy, sau đây là danh sách các hiệu uý từ cấp cao xuống thấp:

1/ Kiển Thạc (蹇碩), Thượng quân Hiệu uý (上軍校尉) 2/ Viên Thiệu (袁紹), Trung quân Hiệu uý (中軍校尉) 3/ Bào Hồng (鮑鴻), Hạ quân Hiệu uý (下軍校尉) 4/ Tào Tháo (曹操), Điển quân Hiệu uý (典軍校尉) 5/ Triệu Dung (趙融), Trợ quân Tả Hiệu uý (助軍左校尉) 6/ Phùng Phương (馮芳), Trợ quân Hữu hiệu uý (助軍右校尉) 7/ Hạ Mâu (夏牟), Hữu quân Hiệu uý (右軍校尉) 8/ Thuần Vu Quỳnh (淳于琼), Tả quân Hiệu uý (左軍校尉)

Ngay lập, chúng ta thấy 2 nhân vật quen thuộc là Viên Thiệu và Tào Tháo giữ vị trí số 2 và 4 trong đội quân. Nhưng nhân vật đáng chú ý hơn là người đứng đầu đội quân này, tức Kiển Thạc, bởi ông là 1 hoạn quan, mặc dù không nằm trong số “Thập thường thị” (十常侍), thực chất gồm 13 hoạn quan cấp cao, nhưng ông cũng là một hoạn quan trẻ, cực kỳ trung thành với Hoàng đế, và Hán Linh Đế đã giao trách nhiệm cho ông đưa Lưu Hiệp lên ngôi.

Một người đáng chú ý nữa là Phùng Phương, cha của Phùng Phu nhân, vợ Viên Thuật, nên cũng có thể coi là người nhà của Viên gia, cho thấy Hoàng đế đã chọn lựa rất kỹ để tránh Hà Tiến nghi ngờ, đồng thời cũng đưa người ông tin tưởng nhất lên đứng đầu.

Trước khi tiếp tục thì chúng ta cần phải giới thiệu chút về Viên Thiệu, người rất ít xuất hiện trong loạt bài này, mặc dù chúng ta đã nói rất nhiều về gia tộc “Tứ thế Tam công” quyền lực nhà họ Viên, đó là bởi vì trong khoản thời gian này, Viên Thiệu chỉ là một người dân thường, do ông không muốn làm quan lớn trong khi các hoạn quan đang nắm giữ quyền lực sau 2 cuộc “Đảng cố chi hoạ.”

Do đó, Viên Thiệu đã tránh khỏi toàn bộ sự hỗn loạn trong triều đình bằng cách lợi dụng cái chết của mẹ mình nhằm đi để tang mẹ trong 3 năm, mặc dù ngày nay nghe có vẻ khá lạ, để tang lâu như vậy là một truyền thống quan trọng trong nho giáo, vốn coi trọng sự hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ. Đây là một cái cớ hoàn hảo để tránh khỏi chốn quan trường khắc nghiệt, trong khi cho thấy mình là một người con hiếu thảo trong mắt của các nho sĩ, sau này sẽ có lợi khi trở lại làm quan.

Như vậy là Viên Thiệu để tang mẹ mình 3 năm trong khi nghe ngóng tình hình cuộc “Đảng cố chi hoạ,” sau khi biết được phe hoạn quan lại chiến thắng trước sĩ nhân, ông lại xin triều đình cho mình để tang cha thêm 3 năm nữa, do lúc cha ông mất, ông chưa kịp có thời gian để tang cha mình, giờ Viên Thiệu muốn nhân cơ hội để tang cha thêm 3 năm.Đó là lý do vì sao Viên Thiệu lại ít được nhắc tới trong loạt bài này, bởi ông bỏ ra 6 năm ở nhà tránh khỏi chốn quan trường để chịu tang cho cha mẹ.

Chính điều này khiến cho danh tiếng của Viên Thiệu ngày càng vang xa, bởi ông được giới nho sĩ coi là một tấm gương hiếu thảo đáng học tập, khiến nhiều nho sĩ đã bỏ công đến để thăm ông. Nhưng đây thực chất là một cái cớ để các nho sĩ đến gặp Viên Thiệu, họp bàn và thành lập một liên minh bí mật trả thù hoạn quan, bao gồm những người như Tào Tháo, Trương Mạc, Điền Phong, Thư Thụ,…

Tất nhiên các hoạn quan không có ngu, họ biết các nho sĩ liên tục đến thăm nhà Viên Thiệu này không chỉ là để học tập tính hiếu thảo của ông. Và họ muốn dừng Viên Thiệu lại, nhưng nhà họ Viên lúc đó là một gia tộc vô cùng quyền lực, nên các hoạn quan cũng biết chừng mực và chỉ dám lịch sự đến xin chú của Viên Thiệu là Viên Ngỗi, lúc bấy giờ làm chức Thái phó, kiểm soát Viên Thiệu lại trước khi ông làm điều gì đó dại dột. Chỉ điều này thôi cũng có thể thấy Viên gia quyền lực như thế nào, do ngay cả Thập thường thị cũng lo ngại không dám đối đầu trực tiếp với Viên Thiệu.

Đây cũng là nhờ bước đi thông minh của Viên Thiệu, chịu tang cha mẹ giúp ông có được 3 lợi thế lớn.

Thứ nhất, ông không thể bị bắt đi làm việc cho triều đình trong giai đoạn này, khiến cho các hoạn quan không thể nào làm khó ông như Lư Thực và Hoàng Phủ Tung được.

Thứ hai, ông có thời gian và cái cớ để xây dựng đồng minh trong khi vẫn ở nhà chịu tang.

Thứ ba, và quan trọng nhất, việc ông từ quan, ở nhà để tang cha mẹ trong 6 năm khiến cho ông trở nên nổi tiếng trong giới nho sĩ, càng được tôn trọng và khó làm hại hơn.

Nhưng cuối cùng, việc Lưu Hoành triệu ông vào cung cũng chấm dứt 6 năm chịu tang, và Viên Thiệu trở thành tướng lĩnh đứng thứ 2 trong đội quân Tây Viên của Hoàng đế, một phần cũng nhờ danh tiếng ông có được do để tang.

Tuy nhiên, những nỗ lực của Hán Linh Đế cũng trở nên vô ích, vì vào tháng 5 năm 189, chỉ vài năm sau khi quân đội Tây Viên thành lập, Hoàng đế này đã lâm bệnh và băng hà ở tuổi 33, trước khi kịp phong Lưu Hiệp lên làm người kế vị. Vậy là theo lẽ tự nhiên, con cả Lưu Biện sẽ là người lên nối ngôi.

Nhưng đội quân Tây Viên vẫn còn đó, và Thượng quân Hiệu uý Kiển Thạc biết rõ Hán Linh Đế muốn gì, vậy là ông đến bàn bạc kế hoạch lập Hoàng đế mới với các hoạn quan cấp trên là Triệu Trung và Trương Nhượng, hai người đứng đầu Thập thường thị. Tuy nhiên họ không muốn thay Hoàng đế bởi Thập thường thị vốn là đồng minh của Hà Hoàng hậu, giờ trở thành Hà Thái hậu, nên họ khuyên ông nên án binh bất động.Nhưng Kiển Thạc là người rất trung thành với Hán Linh Đế Lưu Hoành, và cho rằng mình phải làm theo kế hoạch của đã định.

Việc này làm cho Thập thường thị vô cùng khó chịu, bởi họ thích tình hình hiện tại hơn, do đó Trương Nhượng quyết định phản bội Kiển Thạc và thông báo cho Hà Thái hậu về kế hoạch của Kiển Thạc. Ngay lập tức, Hà Tiến mang Ngự Lâm Quân đến giết chết Kiển Thạc trước khi ông kịp hành độngLúc bấy giờ, đội quân riêng của Lưu Hoành lập ra để đưa Lưu Hiệp lên ngôi đã trở thành đội quân do Viên Thiệu chỉ huy, bởi cả Lưu Hoành và Kiển Thạc đều đã chết.

Do Viên Thiệu là đồng minh của Hà Tiến, đương nhiên quân đội này cũng rơi vào tay Đại tướng quân Hà Tiến.Có thể thấy, lúc này tại Lạc Dương, triều đình chia làm 2 phe phái chính, một bên là các hoạn quan và Hà Thái hậu; một bên là Hà Tiến, người nắm giữ binh quyền vô cùng lớn trong tay, Thái phó Viên Ngỗi, một nho sĩ có tiếng trong thiên hạ, và Trung quân Hiệu uý Viên Thiệu, người vừa nắm binh quyền vừa được các nho sĩ coi trọng, ông đồng thời cũng dùng quan hệ của mình với Hà Tiến và Viên Ngỗi để nhanh chóng nắm giữ quyền lực.

Vì vậy, Viên Thiệu khuyên Hà Tiến nên triệt để tiêu diệt hoạn quan, lúc họ không nắm giữ binh quyền trong tay. Nhưng vấn đề là bây giờ Hà Tiến lại chần chừ không quyết đoán, ở góc độ cá nhân, ông vốn ghét các hoạn quan cũng như bao gia tộc khác, nhưng dù sao họ cũng thông báo cho ông về kế hoạch đảo chính của Kiển Thạc và ủng hộ Lưu Biện lên làm Hoàng đế, đồng thời Hà Thái hậu cũng nhiều lần can dự, khuyên Hà Tiến không nên giết đồng minh của mình.

Thấy Hà Tiến không muốn động binh, Viên Thiệu bèn dùng kế khác, khuyên ông nên mời các xứ quân địa phương tập trung đến kinh thành Lạc Dương để tăng cường lực lượng. Nhưng thực tế, Viên Thiệu lại bí mật muốn dùng những đội quân này để đe doạ và ép Hà Tiến phải động binh.

Kế hoạch thành công do Hà Tiến cũng muốn tăng cường lực lượng trong quân đội mình và mời vô số các quân phiệt địa phương tới Lạc Dương. Nổi tiếng nhất trong số này phải kể đến Đổng Trác, vô cùng gian xảo khi mang rất nhiều binh lính hơn so với yêu cầu nhưng lại không gia nhập doanh trại của Hà Tiến như những người khác, tại thời điểm này, Đổng Trác đã bị triều đình “thất sủng” do những thất bại trong cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng và Khởi nghĩa Lương Châu, do đó ông chỉ cẩn trọng ngồi chờ cơ hội để tiến công.

Và với lực lượng quân phiệt địa phương ngày càng tụ tập đông hơn bao vây kinh thành, các hoạn quan biết chuyện gì đang diễn ra, vì vậy họ phải hành động thật nhanh trước khi Hà Tiến đổi ý và đánh vào cung. Do đó Thập thường thị xin Hà Thái hậu triệu Hà Tiến vào cung để thương lượng, nhưng lại bí mật muốn giết Hà Tiến mà không nói cho Thái hậu biết. Hà Tiến vốn chủ oan do lực lượng và binh quyền của ông ngày càng lớn mạnh, lại không nghĩ việc triệu tập của chính em gái mình sẽ làm hại gì, nên đồng ý.Hà Tiến vào cung mặc cho lời can ngăn của Tào Tháo và Viên Thiệu, họ đành mang quân đội hộ tống ông đến trước cổng thành, khi đến đó, lính gác chỉ cho phép Hà Tiến vào cung, do nhiều người như vậy vào gặp Hà Thái hậu thì không tiện. Ngay khi Hà Tiến bước vào cung một mình, các hoạn quan không thương lượng gì mà chém luôn Hà Tiến.

Chờ đợi bên ngoài quá lâu, Tào Tháo và Viên Thiệu bắt đầu trở nên lo lắng, khi họ hét vào trong thành hỏi Hà Tiến thế nào rồi, lính gác chỉ đơn giản ném thủ cấp của Hà Tiến ra ngoài thành và nói Đại tướng quân đã cố ám sát tân Hoàng đế và bị giết ngay tại chỗ.Biết rằng các hoạn quan đứng sau việc này, Tào Tháo và Viên Thiệu lập tức hạ cho quân đội ập vào trong kinh thành, giết hết tất cả hoạn quan họ có thể tìm được.

Thấy rằng Tào Tháo và Viên Thiệu đã trở nên điên tiết, Triệu Trung và Trương Nhượng đã bắt Hoàng đế chạy trốn khỏi kinh thành, chỉ để bị đội quân của Đổng Trác bắt giữ.

Và với việc kinh thành rơi vào hỗn loạn do hành động trả thù của Viên Thiệu và Tào Tháo, Ngự Lâm Quân và Ngũ Doanh trước đây dưới quyền Hà Tiến giờ không còn lãnh đạo, tôn Đổng Trác lên làm chỉ huy. Ông vào kinh thành với tư cách là người giải cứu Hoàng đế.

Mặc dù nhà Hán trên lý thuyết vẫn chưa sụp đổ cho đến tận năm 220, khi Tào Phi ép Hán Hiến Đế Lưu Hiệp nhường ngôi. Chúng ta cũng biết ngay từ giây phút thủ cấp của Hà Tiến bay ra khỏi kinh thành và Đổng Trác đưa quân vào Lạc Dương và kiểm soát Hoàng đế, kết cục của nhà Hán đã định sẵn.

nhà Hán tồn tại bao nhiêu lâu?

Triều đại nhà Hán được chia ra thành triều đại Tây Hán và triều đại Đông Hán, xen trong đó là triều nhà Tân tồn tại ngắn ngủi chỉ một vua. Nhà Hán tổng cộng trải qua 25 đời vua, tồn tại 421 năm, từ năm 202 TCN – 220 CN. Lịch sử Nhà Hán được chia thành ba giai đoạn khác nhau: Tây Hán 206 TCN–9 CN (kinh đô tại Trường An)

Nhà Tây Tấn tồn tại bao nhiêu năm?

Nhà Tây Tấn diệt vong, tồn tại được 52 năm, có tất cả bốn vua. Hơn 1 năm sau, Mẫn Đế bị Lưu Thông giết ở Bình Dương khi mới 18 tuổi.

nhà Chu tồn tại bao nhiêu năm?

Triều đại nhà Chu (周朝) (1046 TCN – 256 TCN) Nhà Chu (周朝) là triều đại lâu đời nhất trong lịch sử Trung Quốc, cai trị khu vực này trong gần 8 thế kỷ. Nhà Chu được chia thành Tây Chu (1045–771 TCN), Xuân Thu (770–476 TCN) và Chiến Quốc (475–221 TCN). Các thời kỳ sau còn được gọi là Đông Chu.

Việt Nam đã trải qua bao nhiêu đời vua?

“54 vị Hoàng đế Việt Nam” giới thiệu chân dung của 54 vị hoàng đế tiêu biểu trong số gần một trăm vị hoàng đế từ nhà Tiền Lý (Lý Nam Đế) đến nhà Nguyễn với vị vua cuối cùng là Bảo Đại.