Phân tích diễn ngôn là gì

Phân tích diễn ngôn là một kỹ thuật nghiên cứu định tính đã có tác động quan trọng trong khoa học xã hội cũng như tâm lý xã hội và xuất phát từ tầm quan trọng mà ngôn ngữ có được không chỉ là cách thể hiện một thực tại xã hội nhất định, mà còn là cách xây dựng nó.

Đó cũng là một định hướng phức tạp đã đạt được sự phổ biến quan trọng trong các nghiên cứu xã hội và có thể được thực hiện theo những cách rất khác nhau. Dưới đây bạn sẽ tìm thấy một mô tả chung về phân tích diễn ngôn, nền tảng của nó và tác động của nó đối với tâm lý học xã hội.

  • Bài liên quan: "Tâm lý học chính trị là gì?"

Học ngôn ngữ trong tâm lý học xã hội

Ngôn ngữ chắc chắn là một trong những yếu tố phức tạp và thú vị nhất mà chúng tôi chia sẻ con người, đó là lý do tại sao nó đã định vị mình là một đối tượng của các cuộc thảo luận và nghiên cứu khoa học trong nhiều thế kỷ.

Trong khoa học xã hội, thế kỷ XX được công nhận là thời kỳ mà ngôn ngữ được đặt ở trung tâm nghiên cứu và phân tích xã hội, lịch sử, triết học và khoa học, những gì được gọi là biến ngôn ngữ. Nói cách khác, nghiên cứu ngôn ngữ là một công cụ rất hữu ích cho sự hiểu biết về cả quá trình tâm lý và xã hội.

Từ đó nảy sinh sự quan tâm của tâm lý học xã hội để nghiên cứu và phân tích các diễn ngôn, từ đó tạo ra các kỹ thuật nghiên cứu như phân tích diễn ngôn, phân tích chuyên đề, phân tích nội dung hoặc phân tích đàm thoại.

Điều phân biệt phân tích diễn ngôn là nó coi lý thuyết ngôn ngữ là một cái gì đó phức tạp. Không giống như, ví dụ, phân tích nội dung, tập trung vào biểu hiện trực tiếp của một khái niệm và thời gian được lặp lại, phân tích diễn ngôn chú ý đến một số yếu tố cấu trúc ngôn ngữ hàng ngày, như trớ trêu ý nghĩa kép, ẩn dụ, hàm ý hoặc bối cảnh, trong số những người khác, có thể giải thích cho các mối quan hệ ngầm hoặc tiềm ẩn.

  • Có thể bạn quan tâm: "Tâm lý học xã hội là gì?"

Phân tích diễn ngôn: một đề xuất lý thuyết và phương pháp luận

Phân tích diễn ngôn là tên đã được đặt cho một tập hợp các đề xuất lý thuyết và phương pháp thực sự rất đa dạng. Do đó, rất khó để đưa ra một định nghĩa duy nhất về kỹ thuật này và cũng có một loại công thức có thể được sử dụng theo cách tương tự bởi tất cả các nhà nghiên cứu..

Một số nền tảng

Mặc dù các tiền đề của nó có thể được truy nguyên trong các truyền thống khác, việc phân tích diễn ngôn phát sinh chủ yếu từ triết lý ngôn ngữ của trường Oxford, trong đó xem xét rằng ngôn ngữ ảnh hưởng trực tiếp đến thực tế xã hội (mối quan hệ giữa các cá nhân, hành vi, nhận thức, ngôn ngữ).

Cụ thể, lý thuyết về hành vi lời nói đã có tác động quan trọng đến phân tích diễn ngôn, vì nó đề xuất rằng các biểu thức ngôn ngữ tạo ra hiệu ứng vượt ra ngoài lời nói được sử dụng. Mặt khác, phân tích diễn ngôn cũng bị ảnh hưởng bởi các tác phẩm có định hướng chính trị và xã hội học hơn.

Định nghĩa có thể

Một trong những cách có thể để xác định phân tích diễn ngôn là chỉ ra rằng đó là một phương pháp nghiên cứu linh hoạt phục vụ cho thực hiện giải thích có hệ thống các bài phát biểu.

Và một bài diễn thuyết là một tập hợp các thực hành ngôn ngữ nhằm duy trì và thúc đẩy các mối quan hệ xã hội (Iñiguez và Antaki, 1994), trong đó, ngôn ngữ không chỉ là một kỹ năng giao tiếp cá nhân mà còn là một thực tiễn cấu thành và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội dễ bị nghiên cứu.

Có nhiều cách để phân tích một bài phát biểu. Trong mọi trường hợp, điểm khởi đầu là hỏi các mối quan hệ xã hội là gì và chúng được giải thích như thế nào (nêu ra một vấn đề nghiên cứu liên quan đến diễn ngôn), và sau đó thu thập kho dữ liệu sẽ được phân tích, đó là các tài liệu ngôn ngữ (ví dụ: thông cáo báo chí, phỏng vấn, chính sách công, quy định, v.v.).

Từ đó, Bài phát biểu có thể được phân tích thông qua các công cụ khác nhau. Một số nhà nghiên cứu bắt đầu bằng cách tiến hành phân tích nội dung, phân loại nội dung của các văn bản theo mục tiêu nghiên cứu của họ và sau đó diễn giải một số loại này.

Các nhà nghiên cứu khác thực hiện các bài đọc sâu, cẩn thận, lặp đi lặp lại và có hệ thống của từng tuyên bố tìm kiếm các tài nguyên ngôn ngữ như trớ trêu, ẩn dụ, mâu thuẫn, cố gắng khám phá các mối quan hệ xã hội được huy động thông qua các tài nguyên này, nghĩa là tìm kiếm các tác động tiềm ẩn của ngôn ngữ.

Điều gì trong mọi trường hợp đều quan trọng về mặt nghiêm ngặt của nghiên cứu là chứng minh đầy đủ các bước chúng tôi đã thực hiện trong quá trình phân tích.

Phân tích diễn ngôn phê phán

Phân tích diễn ngôn phê phán gần đây đã định vị là một phương pháp nghiên cứu mới và đã trở nên phổ biến. Theo nghĩa rất rộng, nó bao gồm việc áp dụng một quan điểm phê phán để phân tích diễn ngôn, nghĩa là, không chỉ chú ý đến các mối quan hệ xã hội, mà còn quan hệ quyền lực, lạm quyền và thống trị hình thành nên thực tế xã hội và được huy động thông qua ngôn ngữ.

Đó là, phân tích phê phán của diễn ngôn tìm cách hiểu làm thế nào mà sự thống trị được tạo ra và tái tạo thông qua các diễn ngôn. Ở cấp độ phương pháp luận, không có sự khác biệt đáng kể, nó chỉ linh hoạt và diễn giải như phân tích diễn ngôn truyền thống.

Đóng góp của bạn cho tâm lý xã hội

Tác động chính của phân tích diễn ngôn trong tâm lý học xã hội là nó cho phép phát triển một phương pháp thay thế cho các phương pháp nghiên cứu tập trung vào thử nghiệm, xem xét rằng đây không phải là một quá trình trung lập mà nhà nghiên cứu không ảnh hưởng đến thực tế mà anh ta đang nghiên cứu, mà ngược lại.

Tương tự như vậy, nó đã tác động đến cách thực hiện tâm lý xã hội, bởi vì nó hiểu ngôn ngữ không phải là thứ gì đó ở mỗi cá nhân mà là cách xây dựng bản thân và bản thân chúng ta, và môi trường mà chúng ta tương tác..

Là một truyền thống rộng lớn và không đồng nhất, có những trường phái, tác giả và mô thức phân biệt khác nhau cả lý thuyết về ngôn ngữ và phương pháp nghiên cứu, theo quan điểm truyền thống hơn về phân tích diễn ngôn cũng như trong phân tích phê phán hiện nay về bài phát biểu.

Tài liệu tham khảo:

  • Íñiguez, L. (2003). Phân tích diễn ngôn trong các ngành khoa học xã hội: giống, truyền thống và thực tiễn, Pp: 83-124. trong Íñiguez, I. (Ed.) Phân tích diễn ngôn. Cẩm nang về khoa học xã hội, Biên tập UOC: Barcelona
  • Van Dijk, T. (2002). Các phân tích quan trọng của diễn ngôn và tư tưởng xã hội. Athenea kỹ thuật số. Tạp chí tư duy và nghiên cứu xã hội, 1: 18-24.
  • Íñiguez, L. và Antaki, C. (1994). Trong phân tích diễn ngôn trong tâm lý học xã hội. Bản tin tâm lý học, 4: 57-75.

Phân tích diễn ngôn là gì
Vương Xương Mễ

       Tóm tắt: Phân tích diễn ngôn đã hình thành lên rất nhiều trường phái, vì các mục đích nghiên cứu khác nhau nên sử dụng những phương pháp, khung lí luận, các bước phân tích và phương pháp luận khác nhau. Bài viết bàn luận về ba phương pháp phân tích diễn ngôn nổi lên trong hững năm gần đây: phương pháp phân tích đa phương thức, phương pháp phân tích phương tiện, và phương pháp phân tích kho ngữ liệu. Ba góc nhìn mới này là sự kế thừa và sáng tạo của rất nhiều phương pháp phân tích diễn ngôn trước đó, hơn nữa, còn ảnh hưởng, bổ sung lẫn nhau, thể hiện ra xu thế đa vĩ độ, liên ngành của phân tích diễn ngôn hiện nay, đây rõ ràng là kết của của việc giao thoa, dung hợp của các ngành khoa học.

Cho dù phân tích diễn ngôn thường được coi là một bộ phận của khoa học ngôn ngữ, nhưng trên thực tế, nó là một môn khoa học giao thoa. Trong 40 năm gần đây, phân tích diễn ngôn đã hình thành lên rất nhiều trường phái, do mục đích khác nhau mà sử dụng các phương pháp nghiên cứu, khung lí luận, các bước phân tích và phương pháp luận khác nhau. Bhatia (2008) trong Bước phát triển mới của nghiên cứu diễn ngôn đã liệt kê ra rất nhiều phương pháp của phân tích diễn ngôn. So với những phương pháp mà Bhatia liệt kê, phương pháp phân tích phương tiện (Multimodal discourse analysis), phương pháp phân tích đa phương thức (Mutilmodal discourse analysis) và phương pháp phân tích kho ngữ liệu (Corpus – based discourse analysis) mới xuất hiện những năm gần đây có thể coi là ba góc độ mới của lĩnh vực phân tích diễn ngôn.

  1. I.                   Các trường phái của phân tích diễn ngôn

Căn cứ và mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, nguồn gốc lí luận và trọng điểm nghiên cứu khác nhau, Hoàng Quốc Văn (2006) đã phân phân tích diễn ngôn thành ba trường phái: 1. Trường phái Anh Mỹ (the British – American chool); 2. Trường phái Foucault (Foucault school); 3. Trường phái diễn ngôn phê bình(the CDA school).

Nội dung nghiên cứu chủ yếu của trường phái Anh Mỹ bao gồm: kết nối (cohesion) và liên quan, ngữ biên, kết cấu diễn ngôn (textual/ discourse tructure), kết cấu thông tin (information structure), ngữ biên/ loại hình diễn ngôn (textual/ discourse type), ngữ pháp văn bản (text grammar), lí luận đồ thức (schema theory), lí luận về loại ngôn ngữ (Genre theory), phân tích hội thoại (conversation analysis), lí luận hành vi ngôn ngữ (speech act theory), ngôn ngữ học xã hội tương tác (interactional sociolinguistics), văn hóa học giao tế (the ethnography of communication), ngữ dụng học (pragmatics), phân tích biến dị (variation analysis) v.v. Trọng điểm nghiên cứu của trường phái này là ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ; nhìn từ góc độ phát triển lịch sử, trọng điểm nghiên cứu đã chuyển dần từ sử dụng của kết cấu ngôn ngữ (ví dụ ngữ cảnh sách vở và ngữ cảnh đời sống) sang đồ thức, ngữ loại (ví dụ ngữ cảnh văn hóa), nhưng sử dụng của ngôn ngữ trước sau đều là trọng điểm nghiên cứu.

Trường phái Foucault lấy lí luận của nhà triết học người Pháp Foucault làm cơ sở, trọng điểm nghiên cứu là trình tự diễn ngôn (order of discourse), hình thái ý thức (ideology), quan hệ xã hội (social relationships), liên minh xã hội (social alignment)…có liên quan đến thực tiễn xã hội và vấn đề cải cách xã hội. Điều mà trường phái Foucault quan tâm nhiều hơn là thực tiễn xã hội, hiện thực xã hội và những vẫn đề liên quan được chiết xạ ra thông qua ngữ biên, phân tích diễn ngôn, chứ không phải là bản thân ngôn ngữ.

Trường phái diễn ngôn phê bình lấy thực tiễn và kết cấu văn hóa, xã hội làm xuất phát điểm, nên càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề xã hội. Trường phái này chú trọng nghiên cứu việc lựa chọn ngôn ngữ trong ngữ biên và diễn ngôn phản ánh như thế nào “quan hệ quyền lực”(power relation) giữa người phát ngôn và người tiếp nhận, cho rằng thói quen sử dụng (usage) và sử dụng (use) của ngôn ngữ đều mang nhân tố hình thái ý thức. Gần đây, Martin (2004) đề xuất khái niệm “phân tích diễn ngôn tích cực” (positive discourse analysis), chủ trương khi phân tích sự thực xã hội và thực tiễn xã hội nên dùng thái độ tích cực, chính diện, hữu hảo, như thế không chỉ có lợi đói với bản thân mà còn có lợi đối với đối phương. Thông qua phân tích diễn ngôn tích cực, chúng ta có thể tăng cường sự hiểu biết, giao lưu lẫn nhau, cuối cùng xây dựng một xã hội hài hòa, người người chung sống hòa bình, khoan dung, hòa hợp. (Martin, 2004, Chu Vĩnh Sinh, 2006).

Sự hình thành của những trường phái phân tích diễn ngôn trên cho thấy phân tích diễn ngôn đã dần dần hoàn thiện, phồn vinh. Góc độ nghiên cứu của các trường phái này có thể quy nạp thành 6 điểm chủ yếu, đó là: quan hệ giữa diễn ngôn và thế giới, quan hệ kết cấu diễn ngôn và ngôn ngữ với quy tắc, quan hệ diễn ngôn và người sử dụng diễn ngôn, quan hệ giữa diễn ngôn (ngữ biên) với nhau, quan hệ giữa phương tiện diễn ngôn (medium) với diễn ngôn và ý đồ diễn ngôn. (Thành Hiểu Quang, 2006)

  1. II.               Ba góc nhìn mới của phân tích diễn ngôn
  2. 1.      Phương pháp phân tích đa phương thức

Phương pháp phân tích đa phương thức là phương hướng nghiên cứu diễn ngôn mới xuất hiện trong những năm gần đây, tương đối nổi bật và phát triển với tốc độ nhanh. Phương thức chỉ phương tiện và con đường giao tế, bao gồm hệ thống kí hiệu như ngôn ngữ, kĩ thuật, tranh ảnh, màu sắc, âm nhạc… Lí luận này cho rằng xây dựng ý nghĩa trong văn bản tương tác phụ thuộc vào ảnh hưởng và tác dụng tương hỗ của tài liệu kí hiệu đa phương thức, chứ không chỉ giới hạn ở hệ thống ngôn ngữ; những phương thức giao tế khác như tranh ảnh, âm thanh, màu sắc cũng có tác dụng như vậy trong xây dựng ý nghĩa.

Cơ sở lí luận chủ yếu của phương pháp phân tích đa phương thức là hệ thống ngôn ngữ học chức năng do Halliday sáng lập. Nói một cách cụ thể, phương pháp phân tích đa phương thức xuất phát từ hệ thống ngôn ngữ học chức năng đã tiếp nhận quan điểm ngôn ngữ là kí hiệu học xã hội (social semiotic) và tiềm năng ý nghĩa (meaning potential), cho rằng hệ thống kí hiệu khác ngoài ngôn ngữ cũng là ngọn nguồn ý nghĩa; đã tiếp nhận hệ thống lí luận, cho rằng bản thân diễn ngôn đa phương thức cũng có tính hệ thống; đã tiếp nhận giả thuyết chức năng thuần lí (metafunction hypothesis), cho rằng diễn ngôn đa phương thức giống như diễn ngôn chỉ bao hàm kí hiệu ngôn ngữ, cũng có tính đa chức năng, tức là đồng thời có chức năng khái niệm, chức năng nhân tế và chức năng ngữ biên; đã tiếp nhận lí luận ngữ vực (register), cho rằng giữa nhân tố ngữ cảnh và sự lí giải ý nghĩa của diễn ngôn đa phương thức có quan hệ không thể tách rời. (Chu Vĩnh Sinh, 2007). Một động thái hiện nay của phương pháp phân tích đa phương thức là nghiên cứu sự kiến tạo thân phận cá nhân dưới góc nhìn đa phương thức và vận dụng phương pháp phân tích đa phương thức nghiên cứu hành vi tương tác trong lớp học.

Phương pháp phân tích đa phương thức từ bỏ phân tích trừu tượng, thoát li “văn bản” ngữ cảnh, coi văn bản chỉ là một phương pháp giao tế có lợi trong tương tác. Tuy nó coi diễn ngôn là nội dung chủ yếu của tương tác giao tế, nhưng diễn ngôn không phải là con đường quan trọng nhất giải thích hành vi giao tế. Ý nghĩa của phương pháp đa phương thức nằm ở chỗ nó có thể kết hợp ngôn ngữ với tài nguyên ý nghĩa tương quan khác, từ đó làm cho việc đọc hiểu ý nghĩa diễn ngôn toàn diện hơn, chính xác hơn, tiến tới phát hiện nhân loại làm thế nào tổng hợp sử dụng đa phương thức để đạt được mục đích giao tiếp xã hội. Góc nhìn nghiên cứu này đã có ảnh hưởng quan trọng đến lĩnh vực phân tích diễn ngôn phê bình, tương tác giữa người và máy của máy tính… Đúng như Hồ Tráng Lân (2007) đã chỉ ra, cách phân tích diễn ngôn này vừa có thể thúc đẩy chúng ta nghiên cứu ngôn ngữ học, vừa có thể tăng thêm nhận thức của chúng ta về kí hiệu học.

Hiện nay, phương pháp phân tích đa phương thức vẫn ở giai đoạn ban đầu, lí luận và thực tiễn còn nhiều khoảng trống cần được hoàn thiện. Chu Vĩnh Sinh cho rằng phương pháp phân tích đa phương thức chí ít còn tồn tại nhiều điều chưa đủ trên ba phương diện. Trước hết, tính chủ quan của phân tích ngữ pháp còn quá nặng. Phân tích ngữ pháp của phương pháp phân tích đa phương thức do thiếu quan hệ tuyến tính và tiêu chí trên phương diện ý nghĩa ngữ pháp, vì thế, phần lớn cần phải dựa vào sự lí giải của người phân tích đối với hệ thống ngữ nghĩa giữa các bộ phận tổ thành khác nhau. Khi phải đối mặt với hai hoặc nhiều thành phần giống nhau, những người khác nhau có thể sẽ vì bối cảnh văn hóa khác nhau, kết cấu tri thức khác nhau, thậm chí động cơ đọc hiểu khác nhau mà tiến hành phân tích khác nhau, từ đó đưa ra những kết luận khác nhau. Tiếp nữa, quan hệ tương tác giữa các phương thức và vai trò bổ sung lẫn nhau rất khó xác định. Nhìn từ phương pháp phân tích đa phương thức, ngôn ngữ luôn được cấu thành từ nhiều loại hệ thống, mà trong mỗi hệ thống lại có rất nhiều thành phần riêng lẻ, nhưng trong những thành phần này, cái nào có giá trị đối với đọc hiểu, cái nào không có giá trị, cũng là một nhân tố không dễ xác định. Tiếp nữa, cho đến ngày nay, tuyệt đại đa số những người theo đuổi phân tích diễn ngôn đa phương thức đều là hệ thống những nhà ngôn ngữ học chức năng, mà phương pháp phân tích đa phương thức là phương pháp liên ngành, nếu chỉ dựa vào một trường phái ngôn ngữ học là không bao giờ đủ. Chúng ta chờ đợi sự tham gia của các học giả thuộc các ngành khoa học khác, để ý nghĩa của diễn ngôn đa phương thức có được sự đọc hiểu toàn diện, chính xác hơn.

  1. 2.      Phương pháp phân tích phương tiện

Scollon (1998) lần đầu tiên đề xuất khái niệm “phân tích diễn ngôn phương tiện”, Hồ Tráng Lân (2006) gọi nó là “phân tích ngữ biên mang tính giới nhập”, Đới Kiện lại gọi nó là “phân tích diễn ngôn truyền tải”. Xuất phát điểm của nghiên cứu phương pháp diễn ngôn phương tiện là hành vi giao tế, như trong lớp học giáo viên “gọi tên học sinh”, “tiến lại gần học sinh”, “giao cho học sinh bài tập” … tất cả hợp lại thành hoạt động giao tế. Hoạt động giao tế phát sinh trong khoảnh khắc thời gian có thực, gọi là “mặt liên kết” (site of engagement); những mặt liên kết này không ngừng được trùng phức một cách có quy tắc, tức là “điểm kết thực tiễn”(nexus of practice). “Điểm kết thực tiễn” mà Scollon (2004) nói là sự thể hiện cụ thể của hoạt động giao tế, là trọng tâm trong nghiên cứu hoạt động giao tế của Scollon (Điền Hải Long, 2007).

Phương pháp phân tích phương tiện cho rằng diễn ngôn tất yếu phải được tiến hành nghiên cứu từ góc nhìn hoạt động xã hội mà con người theo đuổi, căn cứ vào ngữ cảnh, diễn ngôn chỉ là một thành phần của hoạt động xã hội; diễn ngôn có thể hạn chế hoặc thúc đẩy thực thi hoạt động xã hội đặc thù và kiến tạo thân phận xã hội, diễn ngôn cũng là một công cụ văn hóa để cá thể theo đuổi hoạt động xã hội, thắt chặt quan hệ giữ thành viên với xã hội. Phương pháp phân tích phương tiện cũng chú ý đến tính đối thoại và tính liên văn bản của diễn ngôn, nhưng nó vẫn coi trọng quan hệ giữa sự thể hiện của văn bản và hoạt động trong quá khứ, chú trọng quan hệ giữa diễn ngôn và hoạt động với “tái kí hiệu hóa”(resemiotization) của quá trình diễn ngôn.

Phương pháp phân tích phương tiện quan tâm nhiều hơn đến hành vi xã hội chứ không phải là diễn ngôn. Giống với phân tích diễn ngôn mang tính phê phán, phương pháp phân tích phương tiện chủ yếu quan tâm đến phân tích, giải thích vấn đề xã hội, nhưng những vấn đề xã hội này lại không hoàn toàn được phản ánh trong diễn ngôn. Thực tiễn ngôn ngữ là một hình thức của thực tiễn xã hội, nhưng không phải là hình thức chủ yếu.

Mục tiêu của phương pháp phân tích phương tiện là lí giải hành vi giao tế cụ thể làm thế nào được thực hiện thông qua diễn ngôn, kết cấu xã hội và hình thái ý thức trong những hình vi giao tế này lại là cái được sáng tạo và tái sáng tạo. Từ góc độ phương pháp luận, phương pháp phân tích phương tiện tập trung lợi dụng tài liệu của những khung khác nhau, bao gồm phân tích diễn ngôn mang tính phê bình, xây dựng trên phân tích diễn ngôn nhân chủng học và ngôn ngữ học xã hội tương tác với sự phân tích diễn ngôn đa phương thức. Scollon (2001) nói, diễn ngôn phương tiện với tư cách là khung lí luận đã phản ánh xã hội mà nó muốn phân tích, thể hiện được bản thân thông qua hành vi cụ thể và mấu chốt quy hoạch.

  1. 3.      Phương pháp phân tích kho ngữ liệu

Phương pháp phân tích kho ngữ liệu bắt đầu từ sáng lập kho ngữ liệu thông dụng với quy mô lớn, vì lượng máy móc lớn có thể đọc văn bản được sử dụng sớm nhất trong lĩnh vực ngữ pháp và từ vựng học, gần đây mới được mở rộng trong phân tích diễn ngôn. Kho ngữ liệu trong mấy năm gần đây được phát triển mạnh, quy mô đã tương đối lớn. Kho ngữ liệu “Bank of English” bao gồm 4,5 tỉ từ vựng, mà kho ngữ liệu quốc gia nước Anh (British National Corpus) có khoảng 1 tỉ từ. Những kho ngữ liệu thông dụng lớn này cung cấp cho quy luật thường dùng của mô thức ngữ pháp từ vựng cụ thể những thông tin hữu hiệu, đáng tin, hơn nữa có thể vượt qua giới hạn của câu và đoạn văn ngắn để phân tích văn bản trên quy mô lớn.

Phương pháp phân tích kho ngữ liệu đem đến sự thuận lợi cho việc xử lí và phân tích cơ sở dữ liệu ngôn ngữ, sự phân tích này trong thời kì đầu cơ hồ không thể hoàn thành vì sự xử lí và phân tích thủ công đối với cơ sở dữ liệu ngôn ngữ vô cùng khó khăn. Ngày nay, cùng với sự xuất hiện của máy tính và rất nhiều phần mềm phân tích, những nhiệm vụ này không chỉ trở nên dễ thực hiện mà ngay cả kết quả cũng trở nên đáng tin và có sức thuyết phục hơn. Biber chính là một trong những chuyên gia nổi tiếng nhất trong lĩnh vực này, năm 2001 ông đã dùng phương pháp phân tích kho ngữ liệu ứng dụng vào phân tích đa vĩ độ của biến dị ngữ vực. Ông sử dụng trên cơ cở kho ngữ liệu ngữ biên của máy tính thể hiện ngữ thể rộng lớn trong một loại ngôn ngữ nào đó; lợi dụng công cụ máy tính để nhận biết đặc trưng ngôn ngữ trong ngữ biên; sử dụng kĩ thuật thống kê đa nguyên (multivariate) để phân tích mô thức đồng hiện trong đặc trưng của một ngôn ngữ riêng, từ đó nhận biết vĩ độ biến dị ẩn chứa. Ông cho rằng làm như thế không chỉ có thể cấu tạo ngữ pháp đặc sắc của ngữ vực đơn lẻ, mà còn có thể thông qua ngữ vực cải biến mô thức ngữ pháp từ vựng.

Kho ngữ liệu còn mang đến cho chúng ta công cụ có hiệu lực hơn trong việc nghiên cứu đặc điểm sử dụng trên phương diện đặc trưng ngữ pháp, từ vựng và biến dị chức năng. Hứa Gia Kim (2007) đã kết hợp phân tích định lượng của phương pháp kho ngữ liệu với phương pháp định tính của phân tích diễn ngôn vận dụng trong nghiên cứu “tổ hợp từ”(chunks). Ông dùng phương pháp phân tích so sánh trung gian ngữ, mượn hai kho ngữ liệu khẩu ngữ tiếng Anh ICE-GB-Spoken COLSEC và Anh ngữ gốc của sinh viên Trung Quốc, từ phương diện chức năng tương tác và hình thành diễn ngôn đã khảo sát sự khác nhau trong việc sử dụng “tổ hợp diễn ngôn tương tác” của sinh viên không phải chuyên ngành tiếng Anh và với người Anh gốc. Stubbs (1996) dùng phương pháp phân tích kho ngữ liệu vào phân tích hiện tượng “ưu tiên ngữ nghĩa” (semantic preferance) của một số từ đơn và đoản ngữ. Đồng thời, từ đơn và đoản ngữ có thể có liên quan với nội hàm ngữ nghĩa. Vì thế, giống như từ cause (dẫn đến) trong tiếng Anh, từ này về cơ bản có thể phối hợp cố định với từ đơn mang nghĩa tiêu cực, như sự cố, lo lắng, phá hoại, tử vong, phiền toái…., vì thế thể hiện ra nội hàm ý nghĩa tiêu cực; một ví dụ khác là provide (cung cấp) về cơ bản là phối hợp với những từ đơn mang nghĩa tích cực, vì thế thể hiện nội hàm ý nghĩa tích cực.

Mặc dù trên nghiên cứu diễn ngôn của kho ngữ liệu đã gặt hái được một số thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn rất mỏng so với thành tựu mà phương pháp phân tích diễn ngôn truyền thống có được. Mã Bác Sâm (2009) từ góc độ nghiên cứu diễn ngôn đã chỉ ra ba giới hạn của kho ngữ liệu thông dụng hiện có: 1. Chủ yếu được tạo thành do mô phỏng ngữ biên; 2. Phần lớn vẫn chưa có được những thông tin tiêu chuẩn mà phân tích diễn ngôn cần; 3. Ngữ liệu khẩu ngữ rất ít. Phương pháp phân tích kho ngữ liệu coi nhẹ kết cấu chỉnh thể của văn bản, thực sự không thể phát huy được tác dụng của ngữ cảnh. Hiện nay, do số lượng ngữ biên trong kho ngữ liệu quá lớn tạo nên khó khăn cho việc thao tác đối với việc hoàn chỉnh ngữ biên, điều này sẽ là phương hướng nỗ lực mà phương pháp phân tích kho dữ liệu trước sau cần khắc phục.

Phương pháp phân tích đa phương thức, phương pháp phân tích phương tiện và phương pháp phân tích kho ngữ liệu tiêu biểu cho ba góc nhìn mới của phân tích diễn ngôn, chúng không độc lập phát triển, mà là liên kết chặt chẽ với các phương pháp phân tích diễn ngôn trước đó, là sự kế thừa và sáng tạo những phương pháp có từ trước, đồng thời hảnh hưởng, bổ sung lẫn nhau. Thông qua ba góc nhìn mới này, chúng ta thấy phân tích diễn ngôn ngày nay thể hiện ra xu thế liên ngành, đa góc nhìn, đa vĩ độ, không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là kết quả của sự giao thao và dung hợp của các ngành khoa học.

Đối tượng nghiên cứu của ba phương pháp phân tích diễn ngôn này có chỗ khác nhau: điều mà phương pháp phân tích đa phương thức chú ý là các con đường, phương tiện trong giao tế, cái mà phương pháp phân tích kho ngữ liệu quan tâm chủ yếu lại là văn bản, còn phương pháp phân tích phương tiện lại là hành vi giao tế. Trên phương diện nguồn gốc linh hồn và xuất phát điểm của lí luận, giữa chúng cũng có sự khác biệt lớn: phương pháp phân tích đa phương thức ra đời do muốn khắc phục việc con người quá ỉ lại vào văn bản, phương pháp phân tích kho ngữ liệu ra đời do các phương pháp phân tích khác rơi vào cạm bẫy của ngữ liệu quy mô nhỏ, phương pháp phân tích phương tiện ra đời lại do muốn nhắc nhở con người khi quan tâm đến diễn ngôn, không thể coi nhẹ ngữ cảnhcụ thể của diễn ngôn và hành vi giao tế, cần phải tiến thêm một bước làm rõ đủ các loại liên hệ giữa diễn ngôn và xã hội, tìm ra động cơ nguyên nhân ẩn sâu sau mỗi diễn ngôn. Phân tích diễn ngôn phương tiện và phân tích diễn ngôn phương thức thái chịu ảnh hưởng của hệ thống ngữ pháp chức năng.

Nhìn chung, tuy mỗi loại phương pháp cung cấp một loại quan điểm có giá trị và đáng tin cậy, nhưng không có một loại phương pháp nào có thể mang đến diện mạo hoàn chỉnh liên quan đến ngôn ngữ. Khi tiến hành phân tích diễn ngôn, chúng ta tất yếu phải tổng hợp vận cụng các loại phương pháp khác nhau hướng tới sự toàn diện trong việc phân tích, hơn nữa, sự tiến bộ thực sự của nghiên cứu diễn ngôn sẽ tạo ra đối thoại giữa các loại phương pháp.

Báo Viện giáo dục học, Cát Lâm, Trung Quốc, Số 4, năm 2010

Đỗ Văn Hiểu dịch từ tiếng Trung, 5.2012

Tài liệu tham khảo

  1. Thành Hiểu Quang: Phân tích diễn ngôn như là một phương pháp nghiên cứu- Bình luận “Phân tích diễn ngôn”. Tạp chí Giảng dạy và nghiên cứu ngoại ngữ, 2006
  1. Hồ Tráng Lân, Đổng Giai: Kiến tạo đa phương thức của ý nghĩa – phân tích ngữ biên đối với powerpoint biểu thi thi đấu”. Tạp chí Giảng dạy công nghệ hóa ngoại ngữ
  1. Mã Bác Lân. Kho ngữ liệu và nghiên cứu diễn ngôn của kho ngữ liệu. Ngoại ngữ, 2009
  1. Điền Hải Long: Góc nhìn phê bình của nghiên cứu chung điểm thực tiễn. Ngoại ngữ và giảng dạy ngoại ngữ
  1. Chu Vĩnh Sinh: Phân tích diễn ngôn tích cực: phản bác và bổ sung diễn ngôn phê bình. Nghiên cứu tiếng Anh, 2004.