Phân tích khó thơ Gió đưa cành trúc la đà
Bài làm Ca dao tục ngữ nằm trong kho tàng dân gian Việt Nam. Nó phản ánh tâm tư tình cảm của người nông dân lao động. Những câu ca dao thường gắn liền với những nỗi nhớ, tình cảm lứa đôi, những nỗi niềm của người nông dân trong lao động sản xuất, trong tình cảm gia đình, anh em cha mẹ. “Gió đưa cành trúc la đà, Hồ Tây là một danh lam thuộc thành phố Hà Nội ngày nay. Nó gắn liền với nhiều bài thơ như trong bài “Độc Tiểu Thanh ký” của nhà thơ Nguyễn Du, tác giả có viết “Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang” Hình ảnh Hồ Tây không còn lạ lẫm nhiều với những người Việt Nam. Nó là chiếc hồ nằm giữa trung tâm Hà Nội xung quanh có một số chùa khá nổi tiếng như chùa Trấn Quốc, đền Quán Thánh, ở xung quanh Hồ Tây còn có những hồ nhỏ như Trúc Bạch, nổi tiếng có nhiều quán ăn ngon. Hình ảnh Hồ Tây với làn khói tỏa sương mù giăng lối khiến cho khung cảnh thiên nhiên trở nên mềm mại, trữ tình hơn bao giờ hết. Hình ảnh cành trúc la đà, làm cho câu ca dao có thêm nhiều chất nhạc, trữ tình sâu lắng. >> Xem thêm: Soạn bài Luyện tập làm văn bản đề nghị và báo cáo lớp 7 Trong câu ca dao đầu tiên hình ảnh cành trúc la đà chính là hình ảnh động, là điểm nhấn của toàn bộ câu thơ. Cành trúc mỏng manh yểu điệu thục nữ gợi lên vẻ đoan trang mềm mỏng như hình ảnh của một cô gái thiếu nữ thục hiền e ấp bên khung cửa sổ, nhìn qua mặt hồ có làn khói sương tỏa mong manh, khiến cho con người bâng khuâng xao xuyến. Trong bài ca dao này tác giả xưa đã vô cùng tinh tế, khôn khéo khi sử dụng nghệ thuật biện pháp ẩn dụ, để khắc họa lên một Hồ Tây cảnh sắc tuyệt trần. Trong không gian yên tĩnh mênh mông, không gian bao la ngút ngàn tầm mắt. Hình ảnh Hồ Tây như một chiếc gương soi phẳng lặng khổng lồ, phản chiếu những nét văn hóa lâu đời của con người, của lịch sử dân tộc. Nó đã tái hiện lại những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình qua chiếc gương của mình. Những âm thanh của con người của lịch sử, tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Báo hiệu trời gần sáng, tiếng của hoạt động của con người rộn rã như đánh thức không gian bao la, bình yên đang chìm trong giấc ngủ say. Tiếng gà gáy là hình ảnh vô cùng quen thuộc của những miền quê yên bình. Trong cảnh sắc bình yên, hiền hòa đó những âm thanh của con người, của động vật vang lên chính là âm thanh chân thật của cuộc sống gợi lên trong lòng người lữ khách trữ tình những ấn tượng khó phai, về về đẹp cũng như không gian thiên nhiên nơi đây. Nhịp chày Yên Thái, là nhịp hoạt động của con người tiếng giã gạo, làm bánh tiếng của nhịp sinh hoạt đều đặn thường ngày vang lên khiến cho, bối cảnh thiên nhiên sôi động, rộn rã hơn bao giờ. Bài ca dao sử dụng những ngôn ngữ mộc mạc giản dị, chân thật khiến cho bài ca dao trở nên gần gũi bình dị đi sâu vào lòng người. Tác giả xưa đã vô cùng tinh tế khi vẽ lên bức tranh thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau hài hòa cân đối, như nhịp thở của cuộc đời.
Cảm nhậnNguồn gốc câu ca dao: “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
Tiêu dao miền sơn thủy hữu tình là cái thú của giới tao nhân mặc khách ở chốn kinh kỳ. Dường như, các thi nhân đầu triều Nguyễn, vào thế kỷ 19 đã phóng tác theo lối của các thi sĩ thời Vãn Đường bên Trung Quốc.
Hình ảnh “khói lồng nước, bóng trăng lồng cát” trong bài “Bạc Tần Hoài” của nhà thơ Đỗ Phủ còn rơi đọng để kết thành làn sương khói xóa tan miền tục lụy, theo tiếng chuông chùa ngân vọng lên không, ở bài “Dạ Bạc Nguyệt Biều” của Nhất đại thi ông Tùng Thiện Vương sáng tác nhân chuyến du xuân vào tháng giêng năm Bính Thân, 1836:
Ngày nay, rất nhiều người Huế thích nghe bài nhạc “Đêm Tàn Bến Ngự” của nhạc sĩ tài hoa Dương Thiệu Tước. Ít người nghĩ được rằng tác giả bài nhạc bất hủ ấy là cháu nội cụ Dương Khuê bút hiệu Vân Trì (1835 - 1898) cảm tác cảnh vật sông nước xứ Tràng An mà hình thành những cung bậc réo rắt lòng người, soi rõi đến tận miền vô thức làm cho người bận rộn phải tĩnh ngộ. Nguyễn Khuyến vinh dự được tiễn bạn, khóc người tri kỷ. Bạn thân của ông cũng là một Đệ tam giáp Tiến sĩ đồng xuất thân, làm quan đến chức Tổng đốc Nam Định, về hưu được phong tặng hàm Thượng thư. Rồi 10 năm sau, Nguyễn Khuyến đi xa, đi về với bạn mình. Năm 1886 ông đã từ quan Sơn - Hưng - Tuyên Tổng đốc lui về làm nông dân ở xứ ruộng vườn Bình Lục, tỉnh Hà Nam và làm Thầy dạy học tại dinh Tổng đốc Hoàng Cao Khải tại Hà Nội. Ở tuổi ngoài vòng càn khôn, đôi bạn tri kỷ mặc sức bình Kiều, lẫy Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Theo Lê Quang Thái / Nguồn: Lieuquanhue [Bản in] |