Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

SKKN Một số giải pháp dạy môn Thể dục lớp 2

Show

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.64 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY MÔN THỂ DỤC LỚP 2"
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Để đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Nghị Quyết
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định trong mục tiêu tổng quát các
chiến lược phát triến kinh tế xã hội 2001 – 2010: “Đưa đát nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa…”, phụ
thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực. Mà nguồn nhân lực lại do chính ngành Giáo dục – đào
tạo thực hiện.
Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, phù hợp với công
việc “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước”. Đổi mới giáo dục là nhiệm vụ rất cấp thiết
và quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo.
Mục tiêu của giáo dục – đào tạo hiện nay là: “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài…”. Giáo dục trí tuệ phải đi đôi với giáo dục thể chất. Hai mặt này phải
tiến hành song song và quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên sự phát triển toàn diện cho học
sinh.
Thực hiện Nghị quyết số 40 của Quốc hội khóa 10 về dổi mới chương trình giáo dục phổ
thông, nhằm thực hiện mục tiêu: Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo
dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ. Năm 2001, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ban hành chương trình tiểu học và giảng dạy
đại trà lớp 1 từ naem học 2002 – 2003; năm học 2003 – 2004 tiến hành giảng dạy chương
trình lớp 2… cho đến năm học 2006 – 2007 sẽ hoàn thành chương trình lớp 5 và hoàn
thành giảng dạy đại trà cho các khối lớp bậc tiểu học.
Có thể nói: Giáo dục tiểu học là bậc học nền móng, là tiền đề và cơ sở vững chắc để các
em học tiếp các bậc học trên. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, đặc điểm tâm – sinh lý của các
em đang ở thời kỳ hình thành và phát triển, do đó việc giáo dục thể chất lại cần được coi
trọng hơn lúc nào hết.
Thể dục là môn học góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Thông qua giảng dạy thể
dục nhằm cung cấp, tăng cường sức khỏe, trang bị kiến thức, hính thành kỹ năng vận


động để các em học tập, sinh hoạt có hiệu quả. Trên cơ sở đó, phát triển các tố chất thể
lực, tạo điều kiện cho cơ thể phát triển bình thường theo quy luật tâm lý lứa tuổi, giới
tính. Đồng thời, rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, kỷ luật tác phong tự giác luyện tập thể
dục thể thao và giữ gìn vệ sinh. Ngoài ra, dạy – học môn thể dục còn góp phần giáo dục
cho học sinh nếp sống lành mạnh, vui tươi, có ý thức tổ chức kỷ luật và một số phẩm chất
đạo đức khác, tạo điều kiện hình thành nhân cách đúng cho các em. Cơ thể khỏe mạnh
phát triển bình thường thực sự là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục
ở các môn học khác.
Vậy dạy và học môn thể dục như thế nào? Nhất là dạy theo chương trình đổi mới thay
sách giáo khoa lớp 2 để đạt hiệu quả phù hợp và phát huy được tích cực, sáng tạo, động
não, hứng thú, hình thành thói quen rèn luyện sức khỏe cho học sinh. Điều đó đã và đang
là mối quan tâm chung của mỗi giáo viên chúng ta, của ngành Giáo dục – đào tạo và của
toàn xã hội. Việc thay sách giáo khoa cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học thực sự
cần thiết nhằm đạt được những mục đích và lý do đã nêu trên. Để đáp ứng được mục tiêu
của giáo dục tiểu học nói chung và mục tiêu của môn thể dục nói riêng, là người giáo
viên trực tiếp giảng dạy lớp 2 tôi đã mạnh dạn nghiên cữu, lựa chọn cách tổ chức một số
giải pháp dạy môn thể dục lớp 2 nhằm từng bước giúp học sinh học tốt phân môn này.
Dạy học theo nhóm nhằm nâng cao chất lượng dạy học gúp học sinh học tốt phân môn
này.
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Mục tiêu nghiên cứu:
Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm xây dựng nên những giải pháp cụ thể thực hiện
yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy thể dục lớp 2, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương
trình, sách giáo khoa thể dục ở bậc tiểu học.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa thể dục lớp 2 và đánh giá thực trạng công tác
giảng dạy thể dục cho học sinh lớp 2 trong trường tiểu học hiện nay.
- Các giải pháp thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy thể dục lớp 2 nhằm
từng bước giúp học sinh học tốt phân môn này.
3. Phương pháp nghiên cứu.


Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
1 – Phương pháp phân tích và tổng hợp lý luận.
Phương pháp này chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu
các cơ sở lý luận về thực hiện chương trình GDTC cho học sinh tiểu học thông qua các
văn bản chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chín phủ, Quốc hội, ngành Giáo dục & Đào tạo
cùng với các chương trình và sách giáo khoa cũ và mới về môn thể dục lớp 2.
2 – Phương pháp điều tra – phỏng vấn.
Phương hpaps này chũng tôi sử dụng trong quá trình nghiên usnhawmf mục đích tìm hiểu
thực trạng giảng dạy môn thể dục lớp 2 và tình hình hoạt động GDTC của học sinh lớp 2
hiện nay.
Đối tượng mà húng tôi phỏng vấn điều tra là các giáo viên giảng dạy thể dục trong các
trường tiểu học nói chung và giảng dạy môn thể dục lớp 2 nói riêng…
Hình thức phỏng vấn: Trực tiếp.
3 – Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Trong SKKN này, phương pháp thực nghiệm được sử dụng để kiểm nghiệm, đánh giá
hiệu quả một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học thể dục cho học sinh lớp 2 mà
tôi trực tiếp giảng dạy.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1.Thực trạng
a, Tình hình chung.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn thể dục, chúng ta đều có quan điểm muốn truyền
thụ được kiến thức cơ bản có hiệu quả thì yếu tố cơ sở vật chất có vai trò rất quan trọng.
Qua 2 năm chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2 được trực tiếp giảng dạy cho học sinh 6 môn
học trong đó có môn thể dục, thấy được tầm quan trọng của môn thể dục trong việc tăng
cường sức khỏe cho học sinh tôi đã quan tâm nhiều đến môn học này và đã thấy được
một số thực tế việc dạy học ở môn học thể dục ở trường tôi nói riêng và các trường tiểu
học trong huyện nói chung như sau:
- Thể dục là môn học cần sử dụng nhiều đồ dùng nhưng bộ đồ dùng trên cấp về chỉ có
một số ít không đủ đáp ứng yêu cầu tất cả các bài dạy. Thực tế ở các trường cụ thể là


trường tôi, khách quan mà nói đồ dùng và thiết bị dạy học phục vụ cho môn thể dục tuy
đã có sự quan tâm của cấp trên và ban giám hiệu, nhưng đến nay sân tập cho các em tập
thể dục chưa đảm bảo, chưa phù hợp với một số tiết dạy nhất là thời tiết thay đổi, không
thuận lợi, mặt khác giáo viên chưa có trang phục đúng theo yêu cầu của bộ môn thể dục.
Nên khi dạy các nội dung giáo viên thường dạy chay làm cho học sinh khó hiểu, khó nhớ
động tác, không luyện tập được theo yêu cầu của bài.
- Sách giáo viên chỉ là gợi ý chung cho tất cả các vùng miền, muốn dạy – học có hiệu quả
cần có nội dung, phương pháp dạy học phù hợp với từng vùng, miền nhưng do giáo viên
phải soạn giáo án giảng dạy nhiều môn, vì vậy chủ yếu giáo viên dựa vào bài soạn (sách
giáo viên) để giảng dạy theo các phương pháp trong đó, mặc dù có nhiều nội dung,
phương pháp cần thay đổi cho phù hợp với từng địa phương.
- Giảng dạy thể dục cho học sinh lớp 2 rất cần việc làm mẫu chuẩn xác nhưng giáo viên
chưa coi trọng vấn đề này, qua dự giờ một số tiết của các giáo viên khác tôi thấy giáo
viên làm mẫu còn qua quýt, một số giáo viên cho học sinh (lớp, trường) làm mẫu do thiếu
sự chuẩn bị nên các em làm thiếu chính xác, động tác không đúng kỹ thuật.
- Một số trò chơi trong chương trình chưa phù hợp với đối tượng và điều kiện thực tế của
địa phương nhưng giáo viên cũng chưa có biện pháp thay thế cho phù hợp. Từ đó dẫn đến
học sinh xem nhẹ giờ thể dục, các em học tập thiếu nghiêm túc, tập các động tác thể dục
thiếu chuẩn xác, sai kỹ thuật nên không có tác dụng rèn luyện, tăng cường sức khỏe. Học
sinh rất thích giờ học thể dục nhưng chỉ để thay đổi không khí, để được vui chơi chứ
không phải để luyện tập.
b, Về giáo viên:
Trước đây một số giáo viên quan niệm môn thể dục là không quan trọng bằng các môn
khác nên phần lớn giáo viên chưa đầu tư đúng mức cho môn học, chưa thực hiện tốt
phương pháp giảng dạy, không có sự chuẩn bị kĩ về bài dạy kể cả việc luyện tập trước
các bài tập, động tác kĩ thuật. Việc sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh và bài dạy gần
như chưa được quan tâm giáo viên chỉ chú trọng dạy các động tác của bài thể dục phát
triển chung dưới hình thức giáo viên làm mẫu cho học sinh làm theo. Các trò chơi vận
động, trò chơi nào dễ, đơn giản thì thực hiện, trò chơi nào khó thì bỏ qua nên giờ học rất
đơn điệu, hiệu quả thấp.


Môn thể dục ở các lớp đều do giáo viên không chuyên dạy chưa qua đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ về giảng dạy thể dục, năng khiếu thể dục thể thao lại bị hạn chế, kĩ năng sáng
tạo, nghệ thuật tổ chức trò chơi với môn học còn nghèo nàn còn lúng túng.
c, Về học sinh:
Học sinh tiểu học nói chung, nhất là ở các lớp đầu cấp (lớp 1, 2) có khuynh hướng ghi
nhớ một cách máy móc, chưa có khả năng phân tích tự giác. Khả năng phân tích các hiện
tượng trong tập luyện, lao động, sinh hoạt còn kém, nên dễ bị động khi được nhắc nhở,
sai bảo, dẫn đến biểu hiện kém tự tin, kém khả năng kiềm chế hành vi, thái độ. Để hình
thành kĩ năng vận động các em thường bắt chước cố gắng làm theo các động tác, điệu bộ,
hành vi của giáo viên.
Trong giảng dạy TDTT, do tư duy của các em vẫn còn mang tính chất hình ảnh cụ thể.
Các em sẽ tiếp thu dễ dàng và nhanh chóng hơn đối với các khái niệm có kèm theo minh
họa (hình ảnh trực quan). Do vậy, khi giảng dạy các động tác TDTT ngoài việc phân tích
- giảng giải kỹ thuật động tác, nhất thiết giáo viên phải làm mẫu động tác và sử dụng
rộng rãi các hình thức trực quan khác.
Hoạt động vui chơi đối với học sinh tiểu học là một yêu cầu hết sức cần thiết, đây là nhu
cầu tự nhiên và rất cấp thiết không thể thiếu được trong cuộc sống và trong học tập của
trẻ.
Thông qua các hoạt động vui chơi mà tạo nên các hình thức giáo dục tri thức, đạo đức,
thẩm mĩ và hoàn thiện sự phát triển cơ thể của các em. Mặt khác, hình thức hoạt động vui
chơi còn giúp các em giải tỏa “căng thẳng”, “dồn ép” thời gian khá nhiều cho học tập, hồi
phục khả năng làm việc, hồi phục sức khỏe, góp phần duy trì tính tích cực – tự giác, lòng
hăng say học tập, lao động, tạo tâm hồn tươi trẻ cho các em.
Về mặt tình cảm, thái độ cư xử trong sinh hoạt, học tập… của học sinh tiểu học chưa ổn
định. Các em thường thay đổi tâm trạng, hay xúc động, sự vui – buồn thường gặp trong
cùng một hoạt động, một thời điểm.
Các phẩm chất tâm lí như: tính độc lập, sự tự kiềm chế, tự chủ còn thấp.
Do trình độ thể lực, kinh nghiệm cuộc sống chưa có, mọi sinh hoạt của các em còn chịu
sự tác động ảnh hưởng trực tiếp từ cha mẹ, thầy cô… do đó các em thường trông chờ vào
sự giúp đỡ của người khác khi gặp khó khăn, vì vậy trong các hoạt động giáo dục nói


chung (trong đó có GDTC) và trong sinh hoạt, cần có các yêu cầu mới phù hợp với khả
năng của các em để gây dựng cho các em lòng say mê và sáng tạo trong các hoạt động.
Đầu năm học 2009 – 2010 tôi chủ nhiệm lớp 2A, lớp tôi có 30 em học sinh qua khảo sát
(kết quả học tập môn thẻ dục ở lớp 1 – năm học 2008 - 2009) thì kết quả đạt được:
Tổng số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành
30 SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ
6 em 20 % 14 em 46.7 % 10 em 33.3 %
Với mong muốn có được giờ học sôi nổi nhẹ nhàng hiệu quả, học sinh hoạt động tích
cực… Tôi trăn trở và mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả dạy học môn thể dục lớp 2.
2. Một số giải pháp để dạy tốt môn thể dục lớp 2 theo chương trình đổi mới
Giải pháp 1: Giáo viên phải làm mẫu các động tác thể dục thật chính xác khi lên lớp và
giúp học sinh thực hiện đúng kỹ thuật động tác.
Điều quan trọng mà tôi nhận thức và thấy không thể thiếu được đối với học sinh tiểu học
trước khi lên lớp giờ thể dục là phải luyện tập trước những động tác kỹ thuật thành thạo
có như vậy mới có thể hướng dẫn động tác chuẩn xác cho các em luyện tập theo. Bời vì,
trẻ tiểu học có đặc điểm tâm lý là hay bắt chước, không có phương pháp dạy học nào tốt
hơn là sự làm mẫu chuẩn xác của giáo viên. Nếu trong giờ học đàu tiên truyền thụ đúng
động tác kỹ thuật không chính xác sẽ làm cho học sinh khó tiếp thu. Đặc biệt là giáo viên
khó sửa chữa các động tác về sau của các em, dẫn đến sai lệch không đáng có kể cả sai
lệch về tư thế và kỹ năng vận động cơ bản của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy động tác của bài thể dục phát triển chung.
Nhịp 1: Yêu cầu bước chân trái sang ngang rộng bằng vai, hai tay đưa sang ngang cao
bằng vai, bàn tay ngửa, mặt hướng trước.
Nhịp 2: Đưa hai tay lên cao, vỗ hai bàn tay vào nhau, mặt hơi ngửa, mắt nhìn theo tay.
Ở nhịp 1, nếu giáo viên không chú ý và nghiên cứu kỹ hướng dẫn làm mẫu: Đưa tay sang
ngang, lòng bàn tay sấp sẽ làm cho học sinh tập không đúng kỹ thuật và đồng thời học
sinh khó tiếp thu, khó nhớ động tác. Bởi vì khi lòng bàn tay sấp chuyển sang nhịp 2 đòi
hỏi các em phải xoay cánh tay và bàn tay. Như vậy làm cho học sinh thực hiện bài tập
khó khăn hơn nhiều.


Đồng thời, việc sử dụng tranh ảnh mỗi bài học luôn được tôi thực hiện cơ bản thành thạo
các động tác theo sách. Khi học sinh thực hiện sai động tác tôi cố gắng quan sát chỉ dẫn
cho học sinh biết chỗ sai và yêu cầu học sinh thực hiện lại nội dung đó. Ngoài ra, tôi luôn
vận dụng một số học sinh có năng khiếu biết làm mẫu cho cả lớp bắt chước điều chỉnh và
sửa lỗi cho các em thay đó cho lời giải thích của giáo viên. Kết quả tôi thấy học sinh nắm
bài rất tốt. Do vậy, điều hết sức quan trọng của giáo viên trước khi truyền thụ kiến thức
cho học sinh là phải nghiên cứu thật kỹ nội dung chương trình bài dạy và làm mẫu động
tác chuẩn xác đồng thời chú ý uốn nắn sửa sai ngay cho học sinh mới thu được kết quả
như ý muốn và hoàn thành được nhiệm vụ môn thể dục.
Giải pháp 2: Tăng cường sử dụng trang thiết bị để đổi mới phương pháp dạy học.
Ở trường tôi chưa có sân tập tách khỏi sân chơi, đồ dùng dạy học chưa đáp ứng đầy đủ
với thực tế làm cho hiệu quả dạy môn thể dục bị hạn chế rất nhiều. Qua nghiên cứu kỹ
chương trình, kết hợp cùng với chuyên môn của trường đề cuất với nhà trường mua sắm
một số thiết bị bổ sung phục vụ cho tiết dạy thể dục. Cụ thể vừa qua trường đã làm được
hai bộ cầu lông, 25 quả bóng tự tạo bằng những vật liệu đơn giản như vải vụn. Nhà
trường cũng đã mua sắm cho giáo viên đủ trang phục thể thao như: Giày thể thao, còi để
dạy môn thể dục. Đặc biệt nhà trường đã mua sắm thiết bị nghe nhìn để tổ chức một buổi/
tuần xem băng hình bài dạy của giáo viên thành phố thể nghiệm chuyên đề với để tham
khảo, tổ chức thảo luận, rút ra ưu, nhược điểm của tiết dạy, phát hiện ra cái mới trong đó
so với chương trình cũ. Từ đó, hình thành phương pháp dạy học chung cho trường, lớp
mình phụ trách trên cơ sở đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
theo tinh thần đổi mới của chương trình tiểu học 2011.
Trong quá trình áp dụng các tranh ảnh để dạy các kỹ thuật, động tác tôi đã thực hiện bằng
hình thức vừa cho học sinh xem vừa hướng dẫn, giải thích và nhấn mạnh trọng tâm của
động tác hay kỹ thuật, để các em nhanh chóng nắm bắt được điểm then chốt của động tác
hay bài tập, từ đó giúp cá em dễ hình thành tư thế và kĩ thuật đúng ngay từ đầu. Những
ngày mưa gió, do không thể tập ngoài trời được, tôi vẫn có thể sử dụng tranh, ảnh treo
trong lớp để học sinh quan sát, tập luyện theo các tư thế mẫu của tranh.
Giải pháp 3: Thay đổi một số trò chơi vận động phù hợp với điều kiện thực tế ở địa
phương.


Trước lúc chuẩn bị một số tiết dạy thể dục, tôi nghiên cứu kỹ phần hướng dẫn của sách
giáo viên, tham khảo thêm các tài liệu có liên quan thông qua thực tế của trường, của lớp
để lựa chọn một số trò chơi phù hợp với đặc điểm, dụng cụ, sân tập.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 10 có tổ chức trò chơi vận động “Qua đường lội”. Vì điều kiện thực
tế sân tập luyện của trường tôi là sân cỏ nên việc kẻ sân chuẩn bị cho trò chơi không phù
hợp tôi quyết định thay vào đó bằng cách lấy dây đóng cọc căng hai đầu để học sinh thự
hiện vì nếu kẻ bằng vôi lên trên sân cỏ thì sẽ không khoa học.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 49 có trò chơi “Nhảy đúng, nhảy nhanh”. Nội dung bài học yêu cầu
kẻ sẵn các ô vuông để thực hiện trò chơi với nguyên tắc nhảy tiếp sức. Song vấn đề chuẩn
bị vẫn chưa phù hợp với thực tế địa điểm, sân chơi nên tôi đã lựa chọn thay vào đó trò
chơi “Chạy tiếp sức” mà các em đã được học ở lớp 1. Khi thực hiện, để có vạch xuất phát
tôi đã dùng đoạn dây thay cho việc kẻ sân. Hoặc khi dạy bài 54 có trò chơi “Tung vòng
vào đích” yêu cầu phải chuẩn bị các bảng gỗ nghiêng hình tam giác cân có gắn cọc vuông
góc với mặt bảng để thực hiện trò chơi nhưng do dụng cụ tập luyện (cụ thể là bảng gỗ)
không có nên tôi quyết định thay thế bởi trò chơi “Tung bóng vào đích” là xô, thùng các
tông …
Ví dụ 3: Khi dạy bài 66 có trò chơi “Con cóc là cậu ông trời” yêu cầu của trò chơi này
học sinh phải thuộc một số vần điệu quá dài và đội hình tập theo yêu cầu quá rườm rà.
Bởi đối với học sinh lớp 2 còn quá nhỏ việc ghi nhớ vần điệu dài rất khó. Nên tôi đã
mạnh dạn giảm bớt các câu vần điệu cho ngắn gọn, và thay đổi lại đội hình tập từ 4 hàng
thành 2 hàng giảm các yêu cầu chơi sao cho mỗi lần chơi học sinh thấy được những điểm
mới trong mỗi lần chơi thì tiết học sẽ thấy hiệu quả hơn.
Do đặc trưng của bộ môn với phương pháp yêu cầu tổ chức cho học sinh theo kiếu “Học
mà chơi, chơi mà học” việc lồng ghép trò chơi hấp dẫn phù hợp gây hứng thú học tập cho
các môn học khác đạt kết quả thực là quan trọng là cần thiết điều này phụ thuộc vào khả
năng, năng khiếu của từng giáo viên. Thực tế bản thân tôi nghiệp vụ đào tạo chuyên môn
về thể dục không chuyên, năng khiếu tổ chức về luyện tập cho học sinh còn hạn chế. Do
đó những tiết dạy đầu tuần còn khó khăn nhưng với ý thức nghề nghiệp, lòng yêu nghề
mến trẻ tôi đã phối hợp với tổng phụ trách đội của trường và thầy giáo chuyên dạy
TDTT. Tự tham khảo, học hỏi ở họ những bí quyết và nghệ thuật tổ chức trò chơi như thế


nào để có hiệu quả.
Bởi vậy qua nghiên bài 61 có trò chơi “Ném bóng trúng đích” là một trò chơi tôi thấy rất
phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp.
Mục đích của trò chơi rèn luyện sự khéo léo, chính xác và kĩ năng ném bóng với sự sáng
tạo dùng những quả bóng tự tạo bằng các vật liệu đơn giản như vải vụn trên. Quả thật khi
tôi cho học sinh chơi trò chơi này thì giờ học sôi nổi hẳn lên học sinh rất thích thú, tỷ lệ
xung phong tham gia trò chơi khá cao (khoảng 90%) có những em từ trước đến nay chậm
chạp, nhút nhát thì nay cũng tích cực và hào hứng tham gia trò chơi. Tôi nghị ngoài
những trò chơi trong chương trình nếu chịu khó suy nghĩ tìm tòi sáng tạo thì ngay bản
thân mình cũng có thể nghĩ ra những trò chơi đơn giản dễ thực hiện và đem lại hiệu quả
cao, đó là điều tôi hằng ấp ủ và mong muốn.
Giải pháp 4: Vận dụng âm nhạc tạo nên tâm lý hưng phấn trong giờ học.
Ngoài những tiết dạy thể dục ngoại khóa, thể dục giữa giờ học sinh được học ở sân
trường, sân bãi các bài thể dục mà sách giáo viên đưa vào chương trình bắt buộc tôi còn
tìm tòi vận dụng một số chương trình âm nhạc xen kẽ vào để tạo nên tâm lý hưng phấn
trong giờ học. Bởi đây là mòn ăn tinh thần được thay đổi để các em khỏi nhàm chán như
tôi đã vận dụng các bài múa hát sân trường, bắt nhạc để các em đoán tên bài hát và khi
dàn nhạc tôi đã sử dụng nhiều bài hát cho các em hát như bài “Cùng nhau đi hồng binh” –
Nhạc: Đinh Nhung – Lời mới: Việt Anh để xen kẻ vào những tiết học thể dục.
Qua quá trình dạy học sinh tôi đã dựa vào các mặt mạnh sẵn có, áp dụng thực tế hàng
ngày các trò chơi, các bài tập thể dục nhịp điệu, nhiều bài hát phù hợp với nội dung bài
học để dạy các em có những giờ học vui, sinh động, lý thú và bổ ích hơn.
Về học sinh: Trong giờ học thể dục các em rất có ý thức tác phong nhanh nhẹn hơn, tính
tự quản đã tốt hơn, sức khỏe được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ ốm đau giảm, tình trạng nghỉ học
được chấm dứt. Giờ học thể dục các em tự giác ra sân, giờ học nhẹ nhàng, vui, thoải mái.
Các em có nhiều trò chơi bổ ích được chơi hằng ngày ở nhà, chơi giữa giờ nghỉ học, giải
lao, thư giản khi chuyển tiết, môn.
3. Hiệu quả đat được
Qua quá trình thực hiện áp dụng các giải pháp trên tôi thấy chất lượng học tập của học
sinh đối với bộ môn thể dục đã chuyển biến rõ rêt.


Căn cứ vào các tiêu chí đánh giá kết quả học tập môn thể dục cho học sinh lớp 2 và theo
quy định chung của nhà trường về đánh giá kết quả học tập thể dục năm học 2009 –
2010.
Cụ thể: Kết quả kiểm tra, đánh giá cuối năm học 2009 – 2010 của 30 em lớp 2A đã thực
hiện nhiệm vụ của môn học như sau:
Tổng số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành
30 SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ
20 em 66.7 % 10 em 33.3 % 0 em 0 %

Nhìn vào bảng thống kê trên chúng ta thấy chất lượng học tập môn thể dục của học sinh
đã được nâng lên một cách rõ rệt. Với những giải pháp trên được các giáo viên trong
trường áp dụng cho các khối lớp thì tôi tin chắc rằng cuối năm học số học sinh khối 2 sẽ
không có em nào ở mức chưa hoàn thành.
KẾT LUẬN VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
1. Kết luận.
Thông qua quá trình dạy học theo chương trình và sách giáo khoa mới, qua thực tế giảng
dạy của bản thân tôi nhận thức rằng: Để dạy tốt môn thể dục theo chương trình mới người
giáo viên cần thực hiện tốt một số điểm sau đây:
Điều quan trọng hàng đầu là người giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tâm và
say sưa với công việc, phải nhận thức đúng đắn yêu cầu nhiệm vụ và tầm quan trọng của
môn thể dục, chịu khó tham khảo, nghiên cứu tìm tòi sáng tạo cho tiết dạy, biết tiếp thu
“cái mới” trên cơ sở thừa kế “cái cũ”, từ đó xây dựng thành một kỹ năng, thói quen tập
luyện TDTT cho học sinh.
Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy của môn
thể dục để thấy được mối liên hệ và nét đặc thù riêng của bộ môn, từ đó lập kế hoạch bài
học cụ thể cho lớp mình về môn học phải thực sự đi sâu nghiên cứu tìm tòi, học hỏi để rút
ra nhiều kinh nghiệm hỗ trợ bản thân trong quá trình dạy học.
Để dạy tốt môn thể dục cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng thì
giáo viên cần thực hiện tốt một số giải pháp như sau:
- Giáo viên phải làm mẫu các động tác thể dục thật chính xác khi lên lớp và giúp học sinh


thực hiện đúng kỹ thuật động tác.
- Tăng cường sử dụng trang thiết bị để đổi mới phương pháp dạy học.
- Thay đổi một số trò chơi vận động phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương.
- Vận dụng âm nhạc tạo nên tâm lý hưng phấn trong giờ học.
2. Ý kiến đề xuất
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tổng phụ trách đội với giáo viên chuyên đề thể dục
để trao đổi, thống nhất các nội dung thực hành, giao lưu học hỏi nhằm rút ra kinh nghiệm
hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy trong quá trình dạy học.
- Tham mưu với ban giám hiệu, hội cha mẹ học sinh để mua sắm thêm những đồ dùng
cần thiết phục vụ cho môn thể dục.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra từ thực tế giảng dạy môn thể
dục lớp 2 với một thời gian ngắn đề tài hình thành trong điều kiện thiếu thốn tư liệu. Là
một giáo viên không chuyên năng lực còn hạn chế nên kinh nghiệm trên không tránh khỏi
những sơ suất, khiếm khuyết rất mong được sự góp ý chân thành, bổ sung của các thầy,
cô giáo để tôi tiếp bước vững vàng hơn trong sự nghiệp giáo dục nước nhà.

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng dạy học môn thể dục – giáo dục thể chất cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội

31 28 2

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp tạo động lực và hứng thú trong học tập môn giáo dục thể chất ở trường THPT Quỳ Hợp 2

47 35 1

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm: Thực trạng và giải pháp nâng cao công tác giáo dục thể chất cho học sinh phổ thông tỉnh Đồng Nai

32 644 22

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm phát triển phong trào Giáo dục thể chất, nâng cao chất lượng huấn luyện mũi nhọn bộ môn đạt kết quả cao cho học sinh Trường THPT Nguyễn Xuân Ôn

54 26 2

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học

23 549 48

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp tập luyện thể dục thể thao nhằm giáo dục thể chất và phát huy tính tích cực của học sinh ở bậc trung học cơ sở

9 1026 41

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài tập phát triển thể lực môn cầu lông cho học sinh lớp 10 THPT

28 208 10

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lựa chọn một số trò chơi dân gian nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Giáo dục thể chất tại trường THPT Mường Quạ

33 16 2

Sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục thể chất lớp 2

SKKN: Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học

Giáo dục thể chất nói chung và môn học Thể dục giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện. Thể dục là một biện pháp tích cực, tác động nhiều đến sức khỏe học sinh. Mời các bạn tham khảo bài SKKN "Giáo dục thể chất cho học sinh Tiểu học". » Xem thêm

Chủ đề:

Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM TRƯỜNG TH NGÃI ĐĂNG  Ñeà taøi Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn: Môn Thể dục Người thực hiện: Đoàn Văn Chuyển Tổ chuyên môn: Khối 2+3 Naêm hoïc: 2011-2012 1
  2. A. Phần mở đầu I. Bối cảnh của đề tài Năm học 2011 -2012 là năm đầu tiên thực hiện giảng dạy theo công văn số 5842 BGD ĐT-VP Ngày 01 tháng 9 năm 2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo V/V điều chỉnh nội dung dạy học các môn học Cấp tiểu học, là năm học thứ 3 thực hiện giảng dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng, là năm học thứ 4 hưởng ứng tích cực cuộc vận động" Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực" và là năm thứ 10 thực hiện đổi mới phương pháp dạy học mới lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn giúp học sinh lĩnh hội tri thức. Trước đây, mục tiêu chủ yếu của chương trình Thể dục là kiến thức. Thì nay, sức khỏe, thể lực và hình thành kĩ năng của học sinh là quan trọng nhất của chương trình Thể dục mới bậc Tiểu học. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng sáng tạo, tìm tòi học hỏi để đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới của đất nước đó là giáo dục thế hệ trẻ " vừa hồng vừa chuyên". II. Lí do chọn đề tài - Giáo dục thể chất nói chung và môn học Thể dục trong nhà trường Tiểu học nói riêng, thể chất giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện. Thể dục là một biện pháp tích cực, tác động nhiều đến sức khỏe học sinh. Qua môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, làm cô sở cho học sinh rèn luyện thân thể, bồi dưỡng đạo đức tác phong của con người mới. - Đối với học sinh Tiểu học tâm lý của các em còn mang tính vui tươi, hồn nhiên, hiếu động...đặc biệt là mặt tâm sinh lý của các em có nhiều thay đổi lớn. Vì vậy, trong môn Thể dục không nên theo khuynh hướng thể dục đơn thuần, máy móc, gây cho các em sự mệt mỏi, căng thẳng, nhàm chán, dẫn đến phản tác dụng giáo dục mà qua mỗi tiết học phải tạo được hứng thú, tác động toàn diện cả về tâm sinh lý ở các em, tạo nên sự hứng thú, giúp các em ham thích, luyện tập tích cực. Mặt khác, trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh khác nhau: có em có sức khỏe tốt có em sức khỏe yếu, có em tật bẩm sinh v.v…Vậy phải làm 2
  3. thế nào để tất cả các em đều tham gia tập luyện một cách nhiệt tình. Với nhiều câu hỏi đặt ra, bản thân là giáo viên dạy Thể dục hơn 10 năm công tác, tôi luôn trăn trở làm sao để học sinh ham thích hơn với giờ học Thể dục. Từ những kinh nghiệm có được tôi đã mạnh dạn tham gia viết lên một vài sáng kiến kinh nghiệm trong thực tế để cùng trao đổi và chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. III. Phạm vi và đối tượng của đề tài - Đề tài được áp dụng rộng rải trong trường Tiểu học. - Đề tài được viết trong lĩnh vực Môn học Thể dục. - Đối tượng nghiên cứu là học sinh Tiểu học. IV. Mục đích của đề tài - Tạo cho các em sự say mê, hứng thú trong mỗi giờ học. - Giúp các em rèn luyện thân thể tốt, có một số kĩ năng cơ bản, có sức khỏe ...đảm bảo học tập được tốt hơn. - Qua đề tài muốn trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp một số kinh nghiệm mà bản thân đã vận dụng thành công trong công tác giảng dạy. V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu - Giảng dạy môn Thể dục đòi hỏi người Giáo viên phải luôn năng động tìm tòi nhiều phương pháp, vận dụng nhiều hình thức lên lớp hợp lý qua từng tiết học. - Giáo viên phải nắm bắt được tâm lí lứa tuổi học sinh đẻ lựa chọn nội dung dạy học cho hợp lý( đối với loại bài Môn tự chọn Khối 4-5). B. Phần nội dung I. Cơ sở lí luận: Phân môn Thể dục cùng với các phân môn khác trong nhà trường, có nhiệm vụ quan trọng trong hình thành ở người học những nhân cách sống của con người lao động mới, trong thời đại mới, mà mục tiêu giáo dục của Đảng ta là đào tạo con người: Tự chủ- năng động- sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, tự lo được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống. Qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xả hội công bằng, văn minh. Không những thế, giáo dục thể chất cho thế hệ thiếu nhi là một mặt của nền giáo dục tiến bộ, là nhu cầu tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển 3
  4. của một xã hội văn minh nói chung và của công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Phân môn Thể dục còn mang lại cho thế hệ trẻ cuộc sống vui tươi, lành mạnh và tác động mạnh mẽ đến các mặt giáo dục như: Giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, lao động thẩm mĩ nhằm góp phần đào tạo thế hệ thiếu nhi Việt Nam thành những người" Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". Đối với học sinh Tiểu học, các em còn nhỏ, hệ xương chưa phát triển đầy đủ, tổ chức sụn chiếm tỉ lệ cao, cột sống yếu. Hệ hô hấp ở độ tuổi này có đường hô hấp còn hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động còn kém (do tim còn nhỏ). Sự tập trung chú ý chưa bền vững, dễ phân tán, tính hưng phấn cao, trí tưởng tượng phát triển hơn song còn nghèo nàn, tản mạn, ít có tổ chức, tư duy logic chưa cao. Do đó làm thế nào để dạy môn Thể dục trong trường Tiểu học thật sự thu hút được học sinh tập trung chú ý, tích cực tập luyện và tập luyện có hiệu quả, phù hợp với các em là một vấn đề đòi hỏi cần phải có sự đầu tư, nghiên cứu. Từ thực tế giảng dạy và xuất phát từ mục tiêu trên, đáp ứng được yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Với những yêu cầu cấp bách trên, tôi quyết định chọn đề tài: Một số kĩ năng để giúp học sinh hứng thú trong giờ học Thể dục. II. Thực trạng của vấn đề 1. Thuận lợi: - Cùng với việc đổi mới nội dung- chương trình, phân môn Thể dục được thay đổi nhiều về bội dung chương trình và cấu trúc SGK vì nó được xây dựng theo hướng tích cực, tránh sự trùng lập, giảm thời lượng học tập, tăng tính tích cực hóa hoạt động học tập cho học sinh. Cụ thể: + Nội dung chương trình SGK mới đã được tinh giảm những nội dung chưa phù hợp, bổ sung những nội dung cập nhật với cuộc sống hiện đại. + Tăng cường các nội dung thực hành hoặc vận dụng vào thực tiễn, đồng thời giảm nội dung lí thuyết chưa phù hợp với trình độ học sinh. 4
  5. + Ưu tiên những nội dung được trình bày dưới dạng các hoạt động nhằm thể hiện sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh. - Ở các khối 1,2,3,4,5 đã thực hiện đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học. Những điểm mới về nội dung chương trình đã có tác dụng rất tích cực đến quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh. - Giáo viên được tập huấn thay sách, được hướng dẫn cách xây dựng thiết kế bài học theo hướng mới, có phân chia từng hoạt động cụ thể, rõ ràng, có chỉ dẫn các phương pháp dạy học theo từng chủ đề. - Trong những năm học qua đi kèm với thay sách, Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức biên soạn bộ tài liệu " Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học". Đây vừa là giải pháp cơ bản góp phần khắc phục tình trạng" quá tải" trong giảng dạy, từng bước ổn định và nâng cao chất lượng giáo dục. - Năm 2011 Việc điều chỉnh nội dung dạy học thực hiện theo công văn 5842/BGDĐT- VP ngày 1 tháng 9 năm 2011, trong đó môn thể thao tự chọn khối 4-5 không yêu cầu học sinh "thực hiện đúng các bài tập" mà chỉ yêu cầu “Thực hiện được các bài tập". Hay một số trò chơi nguy hiểm như: Trồng nụ, trồng hoa Giáo viên có thể thực hiện khi điều kiện sân bãi cho phép. Hoặc một số động tác khó trong trò chơi " Chuyền bóng tiếp sức "- Lớp 5- Giáo viên có thể không cho Học sinh thực hiện tung, bắt bóng qua kheo chân... - Học sinh luôn say mê học hỏi, luôn có nhu cầu được hoạt động do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi thời kỳ này trẻ rất hiếu động. 2. Khó khăn: - Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những văn bản hướng dẫn thực hiện chương trinh, SGK và chỉ đạo dạy học phù hợp với đối tượng học sinh ở các vùng miền khác nhau, như: Công văn số 896/BGDĐT- GDTH ngày 13-2 -2006 về Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học, CV số 9832/ BGDĐT- GDTH ngày 01-9-2006 Về Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 5
  6. 1,2,3,4,5 nhưng không ít giáo viên vẫn lúng túng khi vận dụng chương trình, SGk để dạy học cho các đối tượng khác nhau. - Giáo viên còn thiếu kinh nghiệm trong cách thức tổ chức hoạt động dạy học tích cực cho từng lớp cụ thể. Giáo viên chưa dành nhiều thời gian để nghiên cứu tìm ra những đồ dùng dạy học gần gũi với các em. - Nội dung dạy học cũng còn bất cập, ví dụ đối vối học sinh có sức khỏe yếu thì nội dung cần đạt thường không đảm bảo. Cụ thể như ở Khối 4 nội dung bật xa phải đạt 140cm (đối với nam) và 135 cm ( đối với nữ) thì những em này không thực hiện được. Hoặc nội dung tự chọn môn đá cầu ở khối 4-5 khi thời tiết không thuận lợi (gió nhiều) Học sinh cũng gặp khó khăn. - Hiện nay một số đơn vị trường sân bãi dành cho tập luyện còn ít, sân tập chưa được lót đan nên thường gây bụi cho học sinh. - Đồ dùng dạy học cung cấp chưa đầy đủ như trò chơi " Chạy tiếp sức ném bóng vào rổ" -lớp 4- sân và dụng cụ học tập không đủ thực hiện . Hay giáo viên phải tự làm thêm đồ dùng dạy học cho một số trò chơi như: " Tung vòng vào đích" - lớp 2, trò chơi "Đua ngựa" -lớp 4... Chính vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong phân môn Thể dục là vấn đề nóng bỏng, búc xúc, cần thiết giúp học sinh chủ động trong các hoạt động, phải làm sao cho các em tự chiếm lĩnh tri thức, tự tìm kiếm kiến thức và trở thành những học sinh luôn năng động, sáng tạo, làm bước đà để các em thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Những vấn đề trăn trở và tồn tại trên là động lực thức đẩy tôi nghiên cứu qua thực tế giảng dạy, tìm tòi sách báo, tạp chí, tư liệu, băng hình... đã bắt tay vào xây dựng đề tài trên. III. Các biện pháp để tiến hành giải quyết vấn đề: Trong môn Thể dục để có một tiết học đạt hiệu quả cao, tạo cho các em niềm say mê hứng thú tập luyện, nắm vững được nội dung bài học, không cần ghi lý thuyết, thực hiện động tác chính xác, đẹp, không có dấu hiệu mệt mỏi, 6
  7. chán nản trong tập luyện hay thái độ tập cho có cho xong. Muốn đạt được những yêu cầu trên, cần phải có một số phương pháp cốt yếu sau: - Trước hết giáo viên dạy Thể dục phải nắm chắc chương trình giảng dạy ở tất cả các khối lớp, cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy. Với yêu cầu hiện nay, mục tiêu bải học phải dựa trên chuẩn kiến thức và kĩ năng và CV 5842 Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học, đòi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu thât kĩ nhất là khâu soạn giảng sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh; sử dụng phương pháp và hình thức lên lớp sao cho hợp lý. Đối với nội dung " Môn học tự chọn" của khối 4-5, tôi chọn nội dung có nhiều học sinh yếu thích. Nếu lớp có 2 khoảng em thích môn đá cầu thì tôi chọn nội dung đó. Nhờ vậy học sinh tập 3 luyện tích cực hơn. - Không như những môn học khác, môn Thể dục không có sách giáo khoa cho các em nghiên cứu trước ở nhà, mỗi giờ học đều mở ra cho các em những điều mới lạ và giáo viên chính là người dẫn dắt các em đi từ hoạt động này đến hoạt động khác nối tiếp. Cụ thể hơn: + Vào đầu mỗi giờ học GV cần dành một ít thời gian để kiểm tra trang phục, dụng cụ học tập của các em, qua đó tạo ý thức, nề nếp học tập tốt. + Môn thể dục là môn học vừa học vừa chơi nhưng đầy tính nghệ thuật . Một động tác đẹp, một đội hình đẹp cũng đã góp phần giáo dục thẩm mĩ cho các em. Vì vậy giáo viên phải là người giúp các em đến với cái đẹp bằng tất cả tài năng và sự sáng tạo của nình. Dạy Thể dục yêu cầu cơ bản là người GV phải tập làm mẫu từng động tác, thao tác phải nhuần nhuyễn, phân tích phải rõ ràng từng chi tiết, kỹ thuật của từng động tác giúp học sinh dễ hiểu và nắm bắt ngay. Đã gọi là làm mẫu thì động tác phải đạt yêu cầu chính xác, đẹp, đúng kĩ thuật. Học sinh khi quan sát GV làm mẫu rất dễ gây ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ của các em. Đối với GV không chuyên, Gv lớn tuổi không có khả năng làm mẫu thì có thể cho học sinh quan sát tranh, ảnh, xem phim, hoặc bồi dưỡng cán sự, nên chọn những em có năng khiếu tốt về mặt này để làm mẫu thay cho giáo viên khi dạy những động tác mới. 7
  8. + GV khi giảng giải phân tích kĩ thuật động tác nên ngắn gọn, chính xác, xúc tích, dễ hiểu. Ngoài trời có thể sử dụng tranh, ảnh, mô hình ...để minh họa làm tăng sự chú ý trong các em. + Do đặc điểm của học sinh lứa tuổi Tiểu học tính hiếu động, ít tập trung, ít chú ý cao. Nhất là khi lên lớp ngoài trời hay bị các yếu tố bên ngoài làm ảnh hưởng. Do vậy trong phần mở đầu Gv nên sử dụng một số trò chơi thường được các em ưu thích nhưng tránh những trò chơi vận động mạnh để gây sự tập trung hứng thú trước khi vào phần cơ bản. GV cũng có thể cho cả lớp vỗ tay hát chung một bài hát tập thể để tạo sự thoải mái phấn khởi bước đầu cho quá trình tập luyện. + Trong tiết dạy thể dục không nhất thiết phải tuân theo một khuôn khổ nhất định mà phải luôn thay đổi một số tình tiết mới dễ gây hứng thú cho học sinh. Như thông qua mốt số biện pháp: trò chơi, thi đua khen thưởng, tăng độ khó của động tác...Giáo viên cần đánh giá kết quả cuộc chơi một cách công bằng, khách quan, trung thực, tránh tình trạng thiên vị làm cho các em không thoải mái, thiếu tập trung khi chơi. * Thí dụ minh hoạ: + Nhảy dây: Có thể cho học sinh thi ai nhảy lâu trong thời gian nhất định, em nào giữ dây tốt trong gian nhất định sẽ là người thắng cuộc. + Bật nhảy, bật xa tại chỗ: Có thể cổ chức trò chơi bật xa tiếp sức hay thi bật xa theo nam, nữ. Qua đó giáo viên có thể lựa chọn được học sinh bật xa nhất trong lớp, khối, trường tạo nguồn bồi dưỡng học sinh năng khiếu cho trường. + Luyện tập chạy nhanh: Có thể tổ chức chạy tiếp sức giữa hai đội dưới hình thức trò chơi. Với các hình thức thay đổi trên sẽ làm cho các em không cảm thấy nhàm chán - Trong quá trình dạy học, nếu các em có dấu hiệu mệt mỏi giáo viên cần thay đổi nội dung để tạo lại sự hứng thú, lấy lại tâm lý trạng thái vui tươi, có thể cho chơi một số trò chơi nhỏ hay kể một số câu chuyện ngắn gọn về tinh thần luyện tập thể thao, lời kêu gọi tập luyện thể dục của Bác Hồ… 8
  9. - Việc phân bố thời gian trong mỗi tiết dạy rất quan trọng, không nhất thiết nội dung trọng tâm phải dành nhiều thời gian hay chơi nhiều hơn tập luyện cũng không mang lại hiệu quả; không nên truyền thụ lý thuyết một cách dài dòng mà cần nói ngắn gọn sau đó dành thời gian cho học sinh tập luyện, thực hành. - Lượng vận động trong mỗi tiết học cũng cần phải hợp lý, vừa sức. Nếu nội dung trọng tâm mà lượng vận động đã nhiều thì nội dung trò chơi nên cho chơi những trò chơi tại chỗ, ít vận động …giúp sức khoẻ học sinh không ảnh hưởng đến các tiết học tiếp theo. - Dụng cụ học tập rất quan trọng, nên áp dụng triệt để vì nó dễ tạo nên hưng phấn. Cho nên mỗi nội dung, mỗi tiết học, giáo viên nên thay đổi dụng cụ như: bóng đá, bóng chuyền, dây, cờ, cầu đá… hay các vật dụng khác mang màu sắc đa dạng áp dụng trong bài học và trò chơi, sẽ tác động vào mắt các em gây sự hứng thú hấp dẫn trong tập luyện. - Trong suốt tiết học, giáo viên cũng nên dùng phương pháp thi đua khen thưởng động viên các em, mỗi một nội dung cho các tổ thi đua với nhau, giáo viên nhận xét khen thưởng sẽ tạo nên sự tranh đua, gắng sức tập luyện. Ở tâm lý học sinh tiểu học chỉ cần động viên khen ngợi một điều gì đó là các em sẽ thích thú ngay. - Đổi mới dạy học môn Thể dục theo hướng phát huy tính cực của học sinh bằng các biện pháp thi đua, thi đấu, biểu diễn và dưới dạng trò chơi. Khi dạy học cần nâng cao tính tự giác, khả năng tự quản của học sinh để phát huy tính sáng tạo chủ động và học tập tích cực của các em. Tăng cường chia tổ, nhóm, tổ chức cho học sinh tự tập luyện và tự quản nhằm khai thác việc tự đánh giá ở mỗi em, làm cho giờ học luôn tự nhiên, sinh động và hấp dẫn. - Để tìm hiểu tình hình học sinh một cách toàn diện, trong mỗi lớp học, GV cần lập danh sách riêng tìm hiểu khả năng vận động của một số học sinh, em nào có sức khoẻ tốt, sức khoẻ yếu hay bệnh tật… để có hình thức bồi dưỡng tập luyện khác nhau. - Đối với học sinh yếu, khuyết tật, không để các em nghỉ, mà giáo viên phải tổ chức riêng cho các em tập với cường độ nhẹ hoặc cho các bạn có sức khoẻ tốt giúp đỡ các bạn yếu, giáo viên nên động viên khích lệ các em này. Cần tạo điều 9
  10. kiện cho các em, chẳng hạn cho các em này làm trọng tài trong các trò chơi, các hoạt động thi đua hoặc áp dụng phương pháp tập luyện bằng cách “phục hồi chức năng” với hình thức nhẹ nhàng, nội dung phù hợp để các em này được hoạt động, tạo cho các em một tinh thần thoải mái, vui vẻ phấn khởi tập luyện nâng cao sức khoẻ cùng các bạn. - Phối hợp cùng công tác Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tổ chức cho các em tham gia các hoạt động vui chơi nhân các ngày lễ lớn. Qua các hoạt động vui chơi còn giúp giáo viên tìm được nhân tài bồi dưỡng học sinh trở thành những vận động viên cho trường thi đấu qua các hội thao Huyện tổ chức. Giáo viên cần tạo sân chơi bổ ích cho học sinh, đồng thời tạo cơ hội cho học sinh có năng khiếu có cơ hội phát huy tài năng của mình như: đá cầu, đá bóng, nhảy dây, bật xa, chạy…Đặc biệt môn bóng đá không có trong chương trình TD cấp tiểu học nhưng lại là môn thi đấu trong các hội thao Huyện. Vì vậy ngay từ lớp 3 giáo viên cần sớm phát hiện tài năng của các em, lập kế hoạch bồi dưỡng thành lập đội bóng đá cho trường. Nói chung chương trình dạy thể dục trong trường Tiểu học rất đa dạng, phong phú nhưng tuỳ vào mức độ khác nhau. Giáo viên khi lên lớp cần nghiên cứu trong mỗi tiết dạy tạo mọi điều kiện, sử dụng phương pháp phù hợp với lứa tuổi các em, đảm bảo tính vừa sức, hấp dẫn, tạo nên hưng phấn, tính hấp dẫn, kích thích các em say mê luyện tập, nâng cao sức khoẻ đảm bảo việc học tập. IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Sau thời gian áp dụng phương pháp trên, tôi thấy rất thuận tiện trong việc soạn giảng cũng như qua thực tế dạy học. Đa số các em có tiến bộ nhiều trong môn học. Cụ thể là học sinh tất cả các khối rất ham thích luyện tập, thường trông đến tiết học Thể dục, chất lượng tăng lên rõ rệt qua từng giai đoạn. Học sinh có sức khoẻ yếu, khuyết tật thì nắm vững nội dung chương trình. Tuy không đòi hỏi mức độ cao ở các em song cũng đủ đảm bảo tốt về mặt sức khoẻ, có ý thức, tổ chức, là cơ sở để các em bước vào lớp kế tiếp với bản lĩnh tự tin hơn, tiến xa hơn. Cụ thể: *Chất lượng NH 2009-2010 10
  11. + A+ : 29/306 hs (9,47%) + A: 277/306 hs (90,53 %) + B: 0 (0%) *Chất lượng NH 2010-2011 + A+ : 42/287 hs (14,6 %) + A: 245/287 hs (85,4 %) + B: 0 (0%) *Phong trào hội thao hè NH 2010-2011: + Cấp Huyện: - Môn bật xa: 2 giải nhất - Môn ném bóng: 1 giải nhất, 1 giải ba - Môn đá cầu: 1 giải nhì (cá nhân) + Cấp Tỉnh: - Môn đá cầu: 2 giải ba C. Phần kết luận I. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình áp dụng SKKN của bản thân: Giáo viên thể dục phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của tiến trình giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn, phải dự giờ trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các bài giảng mẫu để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Giáo viên luôn tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện thực tế, không nên áp đặt, máy móc… II. Ý nghĩa của SKKN đối với giảng dạy: Giúp người giáo viên từng lúc nâng cao tay nghề, yêu thích và hứng thú hơn với công tác giảng dạy, yêu lao động và say mê sáng tạo góp phần tạo tiết học thêm sinh động, phát huy tính tích cực của học sinh. III. Khả năng ứng dụng: Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân đã rút ra được từ những năm giảng dạy. Có thể đây sẽ là một vài kinh nghiệm nhỏ giúp GV dạy môn Thể dục như tôi thực hiện công tác giảng dạy tốt hơn, mỗi tiết học sẽ là một niềm vui đối với thầy và trò. IV. Những kiến nghị và đề xuất: 11
  12. - Nhà trường thường tạo điều kiện cho giáo viên đi học các lớp bồi dưỡng chuyên môn để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy, phục vụ tốt cho công tác chăm sóc sức khoẻ học sinh. - Mỗi năm nhà trường cần mua sắm thêm một số thiết bị, dụng cụ tập luyện: bóng, cầu, dây…Tiến tới xây dựng phòng học có thể ghi chép cũng như các môn học có tính đối kháng như môn cờ vua, bóng rổ… - Mỗi năm nhà trường cùng thầy cô, học sinh có thể làm một số đồ dùng, thiết bị tự làm, góp phần làm giàu thêm cơ sở vật chất của nhà trường - Thường xuyên cải tạo và nâng cao các sân tập. - Tiến tới xây dựng nhà tập đa năng để đảm bảo tập luyện khi thời tiết không thuận lợi. Tóm lại việc học môn thể dục trong nhà trường là một độnmg lực quan trọng để góp phần hoàn thiện về mặt thể chất ngoài ra còn có tác dụng tích cực thúc đẩy các mặt giáo dục khác phát triển khác. Vì vậy, mỗi giáo viên chúng ta phải trao dồi kiến thức, tự hoàn thiện bản thân mình, luôn trăn trở tìm ra những phương pháp soạn giảng, tập luyện phù hợp, khắc phục những khó khăn để đưa chất lượng giáo dục thể chất ngày càng phát triển. Đào tạo cho xã hội thế hệ tương lai là những con ngưởi toàn diện có sức khoẻ dồi dào, có thể lực cuồng tráng, dũng khí kiên cường để tiếp tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và cuộc sống tươi vui lành mạnh. Đề tài này tuy rằng đã hoàn thành nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, mong các bạn đồng nghiệp và ban giám khảo đóng góp ý kiến, bổ sung để tôi có thêm nhiều biện pháp mới hay hơn, sát thực hơn với thực tiển địa phương và từng đối tượng học sinh, để góp phần xây dựng con người phát triển một cách toàn diện 12
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV Tiểu học của Bộ Giáo dục và đào tạo. - Sách GV thể dục từ khối 1-5 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 13