Bất cập về hoàn thuế giá trị gia tăng

Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiLỜI MỞ ĐẦULuật thuế GTGT đã được ban hành và có hiệu lực trong vòng hơn banăm trở lại đây. Sự ra đời của luật thuế GTGT đánh dấu sự cải cách lớntrong chính sách thuế của Nhà nước, phù hợp với sự phát triển của nền kinhtế thị trường, với các loại hình, thành phần kinh tế và hình thức sở hữu khácnhau. Cùng với sự ra đời của luật thuế, Bộ tài chính đã ban hành kèm theothông tư hướng dẫn kế toán thuế GTGT phục vụ kịp thời việc thực hiện luậtthuế.Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận trong việc huy động cácđơn vị, cá nhân tích cực đóng góp vào ngân sách Nhà nước, sau một thờigian thực hiện luật thuế này cũng đang bộc lộ những tiêu cực đáng báo động,việc ghi chép kế toán theo hướng dẫn của thông tư với các qui định trongluật thuế GTGT cũng như các qui định trong các thông lệ, chuẩn mực kếtoán quốc tế, có mâu thuẫn, bất cập gây khó khăn cho việc tính toán xác địnhthuế GTGT và kế toán thuế GTGT. Tình trạng trốn thuế, khai khống để đượchoàn thuế, lập hoá đơn chứng từ diễn ra ngày càng phổ biến với trình độngày càng tinh vi đang là vấn đề nhức nhối đối với ngành thuế nói riêng vàtình hình kinh tế tài chính nói chung. Vì vậy với đề tài "Thuế GTGT, nhữngbất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời gian tới", bài viết đượcxem xét trên hai phần chính sau:Phần I : Hiện trạng về thuế GTGT.Phần II : Bàn bạc trao đổi về thuế GTGT hiện nay và phương hướnghoàn thiện luật thuế GTGT.Khoa Kế toán1Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiTrong quá trình nghiên cứu đề tài trên em xin chân thành cảm ơn thạcsỹ Phạm Đức Cường người đã trực tiếp hướng dẫn em trong việc nghiên cứuvà thực hiện đề tài này.PHẦN I.HIỆN TRẠNG VỀ THUẾ GTGT TRONG NỀN KINH TẾ.1. Khái quát chung về thuế GTGT.1.1.Khái niệm.Khái niệm: Thuế GTGT là loại thuế gián thu được tính trên khoản giá trịtăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất lưuthông đến tiêu dùng.Đối tượng chịu thuế GTGT: là các loại hàng hoá dịch vụ nhập khẩu, sảnxuất trong nước bán cho các đối tượng tiêu dùng cho sản xuất, kinh doanhhay tiêu dùng khác trên lãnh thổ Việt Nam (trừ các đối tượng quy định tạiđiều 4 luật thuế GTGT là những hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịuthuế GTGT).Đối tượng nộp thuế: là các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hànghoá dịch vụ chịu thuế (gọi là các cơ sở kinh doanh) và các tổ chức cá nhânkhác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) như cáccông ty, tổng công ty, xí nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, người kinh doanhđộc lập và các tổ chức khác không phân biệt thành phần kinh tế, ngành nghề,hình thức tổ chức kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh và các đốitượng không kinh doanh nhưng có nhập hàng hoá, dịch vụ chịu thuế đều làđối tượng nộp thuế GTGT.Thuế suất: được coi là linh hồn của sắc thuế. Theo luật thuế GTGT hiệnnay thuế suất có 4 mức.Khoa Kế toán2Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantới+ Thuế suất 0%: áp dụng đối với các hàng hoá xuất khẩu, không phân biệtđối tượng xuất khẩu.+ Thuế suất 5%: áp dụng đối với các hàng hoá dịch vụ thiết yếu như nướcsạch phục vụ sinh hoạt, lương thực, thuốc chữa bệnh.+ Thuế suất 10%: áp dụng đối với mọi loại dịch vụ không thuộc nhóm thuếsuất 0%, 5% và 20%.+ Thuế suất 20%: áp dụng đối với các loại hàng hoá, dịch vụ có phương ánthanh toán cao như vàng bạc, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới, sổ xố kiếnthiết và các hình thức sổ xố khác.1.2.Phương pháp tính thuế.1.2.1.Phương pháp khấu trừ thuế.Số thuế GTGTPhải nộp=Số thuế GTGTđầu ra-Số thuế GTGTđầu vàoTrong đó:Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế  Thuế xuất thuế GTGT.Khi bán hàng phải lập hoá đơn GTGT trong đó ghi rõ:+Giá bán chưa có thuế GTGT+Thuế GTGT.+Tổng số tiền người mua phải thanh toán.Thuế GTGT đầu vào bằng tổng thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGTmua hàng hoá hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của cửa hàng nhập khác vàmột số trường hợp theo quy dịnh của nhà nước được khấu trừ thuế đầu vàotheo tỷ lệ nhất định trên giá trị hàng mua vào (theo bảng thống kê mua hàng,hoá đơn bán hàng).Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo quy định như sau:Thuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng vào sản xuất kinh doanhhàng hoá chịu thuế GTGT thì được khấu trừ.Khoa Kế toán3Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiThuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ được khấu trừ phát sinh trongtháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp trong thángđó, không phân biệt đã xuất dùng hay để trong kho.Khoa Kế toán4Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantới1.2.2. Phương pháp trực tiếp.Số thuế GTGTPhải nộp=Trong đó:GTGT của hànghoá, dịch vụGiá trị gia tăngcủa hàng hoá,dịchvụ=xGiá thanh toán _của hàng hoá,dịch vụ bán raThuế suất thuếGTGTGiá thanh toán củahàng hoá, dịch vụmua vào tương ứng1.2.3. Hoá đơn chứng từ.Doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừthuế sử dụng hoá đơn GTGT khi lập phải ghi rõ:+ Giá bán chưa có thuế GTGT.+ Các khoản phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có).+ Thuế GTGT.+ Tổng giá thanh toán (giá đã có thuế GTGT).Doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp sửdụng hoá đơn bán hàng khi lập phải ghi rõ:+ Giá bán đã có thuế.+ Các khoản phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có).+ Tổng giá thanh toán (đã có thuế GTGT).1.3.Ý nghĩa của thuế GTGTđối với hoạt động kinh tế và nền kinh tếnước ta .Thuế GTGT ra đời khắc phục được những nhược điểm của thuế doanhthu, đặc biệt là sự trùng lặp của thuế doanh thu, kích thích sản xuất phát triểnđồng thời từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta phùhợp sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu hội nhập vớinền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.Khuyến khích thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích xuất khẩu. Đốivới hàng xuất khẩu không những không phải nộp thuếGTGT mà còn đượcKhoa Kế toán5Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớikhấu trừ hoặc hoàn thuế đầu vào nên tạo điều kiện hạ giá bán, nâng khả năngcạnh tranh trên thị trường quốc tế giải quyết nhu cầu lao động ngày càngtăng của xã hội.Thuế GTGT không thu vào vốn đầu tư nên thúc đẩy hoạt động đầu tưmở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại, bởi lẽthuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư TSCĐ, toàn bộ số thuế GTGTphải trả khi mua sắm tài sản sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lạicho doanh nghiệp.Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việcđánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranhcủa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước, bảo hộ thị trường tiêuthụ nội địa, kích thích sản xuất phát triển tạo điều kiện hội nhập vào nềnkinh tế khu vực và trên thế giới khi buộc phải cắt giảm thuế xuất nhập khẩutạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng nhưdoanh nghiệp trong nước.Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bánhàng có hoá đơn chứng từ. Việc tính thuế ở đầu ra được khảo cứu từ số thuếđầu vào là biiện pháp thúc đẩy cả người bán và người mua hàng cùng thựchiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ.Góp phần động viên số thu quan trọng và tương đối ổn định cho ngânsách nhà nước. Thuế GTGT tập trung thu ngay từ khoản đầu và thu thuế ởkhâu sau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạnchế được thất thu.2. Thuế GTGT và những vướng mắc cần tháo gỡ.2.2.Những vấn đề chung.Bên cạnh những tác động tích cực đối với nền kinh tế, thuế GTGTcũng đang bộc lộ những tác động xấu đó là:Khoa Kế toán6Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiKhi áp dụng thuế GTGT thì giá của dịch vụ hàng hoá nói chung cókhuynh hướng tăng lên. Sở dĩ xảy ra hiện tượng này là do sự không am hiểuhoặc cố tình không hiểu về thuế GTGT, bởi lẽ việc thực hiện thuế doanh thutrải qua một thời gian khá dài, ăn sâu vào tiềm thức của người tiêu dùng.Mặc dù thuế doanh thu là một loại thuế gián thu, song được tính chung vàotrong giá bán của hàng hoá, dịch vụ cho nên người tiêu dùng khó nhận biếtđược chính mình là người chịu thuế còn các doanh nghiệp bán hàng chỉ làngười thu hộ thuế cho nhà nước mà họ hiện có cảm nhận đây là khoản thuếđánh vào các doanh nghiệp.Vì vậy, khi áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu mặc dùđó cũng là một loại thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng song cơ chế hạchtoán thay đổi cổ phần là thuế GTGT được tách biệt ra khỏi giá bán hàng hoá,dịch vụ. Điều này dẫn đến khi mua hàng người tiêu dùng thấy rõ khoản thuếmình phải nộp cho Nhà nước nên tâm lý chung họ cảm giác mình phải chịuthêm một loại thuế mới mà trước đây khi mua hàng họ không phải chịu vàđóng góp.Lợi dụng yếu tố trên doanh nghiệp đã nâng giá bán hàng hoá, dịch vụlên để trục lợi. điều này có khả năng làm giá tăng lạm phát, thu hẹp thịtrường tiêu dùng, hạn chế khả năng đầu tư vốn của các doanh nghiệp trongvà ngoài nước. Do nguồn vốn đầu tư bị giảm sút sẽ làm giảm sức cạnh tranhcủa các doanh nghiệp do thiếu hụt vốn, quy mô hoạt động của các doanhnghiệp bị thu hẹp làm cho cơ cấu nền kinh tế bị biến động, dịch chuyển mấtcân đối, tốc độ tăng trưởng có khả năng suy giảm.Số thu thuế GTGT trong thu ngân sách nhà nước so với thuế doanhthu trước đây có khuynh hướng giảm. Điều này ảnh hưởng lớn đến khả năngmất cân đối ngân sách Nhà nước các cấp vốn đã khó khăn nay càng khókhăn hơn.Khoa Kế toán7Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiTình trạng trốn thuế ngày càng trở lên phổ biến, nghiêm trọng và ngàycàng tinh vi. Việc thực hiện những quy định về hoá đơn chưa đồng bộ gâytrở ngại cho các doanh nghiệp được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, các doanhnghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Phạm vi lựa chọn ngườicung ứng bị hạn chế làm cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Cácdoanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp cũng gặp khókhăn do bị hạn chế về phạm vi khách hàng.Việc lập lại hệ thống sổ sách kế toán, chứng từ, hoá đơn, hợp đồngkinh tế, một để dùng nội bộ,một để khai với cơ quan thuế ngày càng trở lênphổ biến. Kinh doanh không giấy phép hoặc ngoài nội dung giấy phép,không kê khai doanh số phát sinh.Sử dụng hoá đơn giả, khống về tình trạng doanh nghiệp khi mua hàngkhông có hoá đơn, đã mua hoá đơn ngoài, tự ghi số lượng, giá cả để tránhthuế đầu vào đồng thời hợp thức hoá hàng hoá đầu vào để được khấu trừthuế GTGT kết hợp với việc kìm hãm thuế GTGT đầu ra thấp hơn để khôngnộp thuế, thậm chí còn được hoàn lại thuế.Lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của cán bộ thuế, các doanh nghiệp làmđơn xin tạm ngừng kinh doanh hoặc xin giải thể, dùng hoá đơn GTGT muađược bán cho các doanh nghiệp khác, thực chất vẫn hoạt động thông đồngvới cán bộ thuế để nimh doanh trốn thuế.2.2. Thực trạng về thuế GTGT hiện nay.2.2.1. Hệ thống thuế suất thuế GTGT.Thuế suất là linh hồn của thuế, là yếu tố quan trọng nhất của mộtchính sách thuế bởi nó biểu hiện một cách tập trung nhất của Nhà nước,phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.Hiện nay luật thuế GTGT quy định có bốn mức thuế suất 0%, 5%, 10% và20%, đối với nền kinh tế nước ta hiện nay một hệ thống thuế suất như vậy làKhoa Kế toán8Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớirất phức tạp. Một hệ thống thuế suất nhiều mức cho nhiều đối tượng khácnhau chỉ mang lại lợi nhỏ trước mắt, nhưng bản thân nó lại mang lại quánhiều bất lợi: công việc tính thuế và quản lý thuế phức tạp, khi áp dụng cácứng dụng công nghiệp hiện đại, dù tinh vi đến đâu việc phân định các đốitượng chịu các mức thuế khác nhau cũng có ranh giới nhất định và chắcchắn ở vùng ranh giới này việc lẫn lộn là không thể tránh khỏi, đó là chưatính đến tính tương đối của việc phân định các tiêu thức phân bố trong việcphân định thuế suất.Có những sản phẩm tính theo tiêu thức sản xuất thì thuộc nhóm nàynhưng theo tiêu thức khác thì thuộc nhóm khác. Tính phức tạp của hệ thốngthuế suất kéo theo biên chế ngành thuế, chi tiêu tiền của xã hội thêm vào đểthu được một đồng tiền thuế vào ngân sách. Thứ đến, mục đích của việc đưara một hệ thống thuế suất nhiều mức khác nhau là nhằm thực hiện một chínhsách kinh tế xã hội nào đó.Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay mọi chính sách kinh tế xã hội đềucó tính giới hạn tương đối so với yêu cầu ổn định của một luật thuế. Cuốicùng đối với thuế GTGT thì mức huy động vào ngân sách hay mức thựcchịu thuế của người tiêu dùng là mức thuế tính trên giá trị sản phẩm, dịch vụtiêu dùng cuối cùng. Vì vậy một hệ thống thuế GTGT nhiều thuế suất khôngmang lại lợi ích căn bản nào ngoài việc làm rắc rối hơn cho công tác thi hànhthuế.2.2.2. Phương pháp tính thuế.Theo quy định của luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay có hai phươngpháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp tínhtrên GTGT. Phương pháp khấu trừ được áp dụng cho các đối tượng thườngcó quy mô sản xuất, kinh doanh vừa và lớn, có doanh số lớn và có đủ điềukiện tổ chức hạch toán kế toán và lưu giữ hoá đơn chứng từ một cách đầyKhoa Kế toán9Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiđủ. Còn phương pháp trực tiếp tính trên GTGT được quy định áp dụng chonhững cá nhân kinh doanh, hộ gia đình và những tổ chức, cá nhân nướcngoài kinh doanh ở việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại ViệtNam, chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện kế toán, hoá đơn, chứng từ để làmcăn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ và các cơ sở kinh doanh, muabán vàng bạc, đá quý. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, khi nềnkinh tế phát triển chưa cao, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh có quymô vừa, nhỏ chưa thực hiện tốt chế độ kế toán, chứng từ, hoá đơn thì việc ápdụng cả hai phương pháp tính thuế nêu trên là cần thiết. Song trên thực tếkhi triển khai thực hiện luật thuế GTGT cho thấy sự tồn tại hai phương pháptính thuế là bất cập, không hợp lý bởi lẽ:Việc tồn tại hai phương pháp tính thuế GTGT sẽ tạo ra sân chơi khôngcông bằng, bình đẳng giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Do việc xuất hiệnhoá đơn giả, khống, hoá đơn thiếu độ tin cậy nên các đối tượng áp dụngphương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT phần lớn khi xác định GTGTtính thuế đều dựa trên doanh thu ấn định và tỉ lệ GTGT trên doanh thu tínhthuế quy định. Trên thực tế cán bộ thuế thường dựa vào mức khoản thuếdoanh thu phải nộp trước đây để suy ngược lại doanh thu tính thuế ấn địnhsau đó nhân với tỉ lệ GTGT trên doanh thu tính thuế quy định do Tổng cụcthuế quy định, Cục thuế cụ thể hoá. Điều này không khác gì thuế doanh thutrước đây, tạo kẽ hở cho sự xuất hiện cơ chế chuyển giao sản phẩm, hànghoá, dịch vụ trốn thuế giữa các đối tượng nộp thuế GTGT theo phương phápkhấu trừ và các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp thông quaviệc hợp thức hoá bằng các hoá đơn giả, hoặc không khớp số liệu giữa cácliên.2.2.3. Khấu trừ khống thuế GTGT.Khoa Kế toán10Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiViệc cho khấu trừ thuế GTGT theo một tỷ lệ nhất định trên giá muavào đối với một số trường hợp không có hoá đơn GTGT đầu vào của các cơsở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thường gọi là chế độ khấu trừ khống.Ban đầu việc khấu trừ này chỉ cho phép đối với một số cơ sở sản xuất, chếbiến, thu mua nông, lâm, thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất bán ra. Chođến nay việc khấu trừ theo tỷ lệ phần trăm (%) đã thực hiện cả đối vớitrường hợp mua hàng có hoá đơn. Điều này tạo ra sự không công bằng giữacác đơn vị, cá nhân. Việc khấu trừ khống tức là không có mà vẫn khấu trừ,khấu trừ trên cái không có thật.Trong quan hệ kinh tế không nên chấp nhận cái ảo, cái không có vìnhư vậy sẽ tạo ra sai số, phản ánh không đúng bản chất của vấn đề, làm sailệch những nhận định, phân tích. Hơn nữa việc cho khấu trừ khống còn vôtình chặt đứt mối quan hệ liên hoàn với phụ thuộc khăng khít và kinh tế giữacác khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh và gây ra những hậu quả phátsinh không cần thiết.2.2.4. Hoàn thuế GTGT.Theo quy định của luật thuế GTGT những đối tượng được xét duyệthoàn thuế GTGT trong các trường hợp:Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấutrừ thuế được xét duyệt hoàn thuế GTGT theo quy định của luật này.Thứ nhất: Các cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký nộpthuế theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bánhàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu từ một năm trở lên đượcxét duyệt hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT đầu vào của tàisản đầu tư được hoàn có giá trị lớn hơn 200 triệu đồng trở lên thì được xétduyệt hoàn thuế toàn quý.Khoa Kế toán11Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiThứ hai: Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi tổ chức lại thànhdoanh nghiệp (sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản) có thuếGTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuếGTGT nộp thừa.Thứ ba: Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơquan có thẩm quyền theo quy định của pháp lụât.Thứ tư: Các dự án sử dụng nguồn vốn ODA theo quy định của luậtthuế GTGT.Thứ năm: Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, việntrợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hoá tại ViệtNam thì được hoàn lại tiền thuế GTGT đã ghi trên hoá đơn GTGT khi muahàng.Những quy định cho các đối tượng được hoàn thuế vẫn mang tínhchung, chưa cụ thể, chi tiết cho từng đối tượng. Hoá đơn thuế GTGT, bảngkê là những căn cứ quan trọng quyết định đến việc hoàn thuế được làm rấtđơn giản, để làm giá,các hoá đơn được khai khống rồi hợp thức hoá để rúttiền hoàn thuế của Nhà nước. Ngoài ra các cơ quan quản lý trong lĩnh vựcnày chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thẩm định hồ sơ xinhoàn thuế GTGT. Chính những điều này làm cho tình trạng vi phạm tronglĩnh vực hoàn thuế GTGT ngày càng gia tăng. Nếu như năm 1999 (năm đầutiên thực hiện luật thuế GTGT) cả nước mới chỉ phát hiện có 3 vụ vi phạmvới tổng số tiền chiếm đoạt lớn nhất là 7,2 tỷ đồng, năm 2000 phát hiện 17vụ, thì năm 2001 đã phát hiện 64 vụ và 6 tháng đầu năm 2002 đã xẩy ra 22vụ vi phạm trong đó có vụ chiếm đoạt từ 10 - 20 tỷ đồng, thậm chí có doanhnghiệp năm 2000 vi phạm thì nay lại tái phạm với số tiền lớn hơn.Các doanh nghiệp thường tạo dựng nguồn hàng khống bằng cách kêkhai các điểm mua hàng không có thật, không rõ địa chỉ, lập hợp đồng muaKhoa Kế toán12Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớibán nội địa khống với các phương thức thanh toán trực tiếp, không qua ngânhàng, hợp thức hoá việc mua bán bằng các hợp đồng chứng từ mua bán giảgồm những công đoạn qua nhiều doanh nghiệp. Tạo dựng nguồn tiền muahàng xuất khẩu bằng cách lập ra các hợp đồng vay tiền khống. Làm giả hợpđồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hoá trong nội địa và racửa khẩu, tạo dựng hợp đồng mua bán ngoại thương và thanh toán trực tiếpgiá.Phần II.BÀN BẠC,TRAO ĐỔI VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT THUẾGTGT1. Nguyên nhân của những tồn tại.Cùng với xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập với nền kinh tế trong khu vựcvà trên thế giới, việc ban hành và thực hiện luật thuế GTGT ở nước ta làhoàn toàn phù hợp và khách quan. Song so với các nước có bề dầy lịch sử vềthuế GTGT như Pháp, Đức... thì thuế GTGT ở Việt Nam còn hết sức mớimẻ và đang trong giai đoạn vừa thực hiện vừa hoàn thiện.Sở dĩ còn nhiều tồn tại trong việc triển khai và thực hiện luật thuếGTGT là vì thuế GTGT là một loại thuế mới, xa lạ với dân chúng, phức tạptrong công tác quản lý thu nộp thuế.Khả năng tổ chức quản lý hướng dẫn sử dụng và tuyên truyền về thuếGTGT còn kém và chậm.Trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ thuế còn nhiềuhạn chế, công tác kiểm tra, kiểm soát còn thiếu đồng bộ, nghiêm túc.Chính sách thuế GTGT còn nhiều bất cập, hạn chế chưa được hoàntoàn phù hợp với nền kinh tế nước ta và chưa thực sự bắt kịp được với sựbiến động và thay đổi.Khoa Kế toán13Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantới2. Hướng hoàn thiện cho thuế GTGT ở nước ta.2.1 Cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện chính sách thuế.Để có cơ sở khoa học cho việc đề xuất hoàn thiện chính sách thuếGTGT ở nước ta hiện nay thiết nghĩ cần phải dựa trên những tư tưởng cơbản, làm nền tảng cho việc định hướng mục tiêu mà chính sách thuế cần đạtđược, đó chính là những nguyên tắc cơ bản, cần thiết để xây dựng một chínhsách thuế hữu hiệu.2.1.1 Nguyên tắc hiệu quả.Nguyên tắc này đòi hỏi chính sách thuế GTGT phải thực hiện đượcnhững chức năng cơ bản nhất của nó đối với nền kinh tế - xã hội, không chỉđảm bảo nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước, mà còn phải đảmbảo ổn định về mặt xã hội, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, tăngtrưởng kinh tế. Trong điều kiện ngân sách eo hẹp của nước ta, việc xây dựngchính sách thuế GTGT nhằm động viên nguồn thu ổn định cho ngân sáchNhà nước là cần thiết, song không vì thế mà không xét tới các yếu tố pháttriển kinh tế, công bằng, hợp lý. Bởi lẽ, có công bằng, hợp lý mới thúc đẩyphát triển king tế đồng thời sự phát triển kinh tế là điều kiện đảm bảo ổnđịnh và mở rộng nguồn thu cho ngân sách.2.1.2 Nguyên tắc công bằng, bình đẳng.Nguyên tắc này đòi hỏi chính sách thuế phải đảm bảo được sự côngbằng, bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế cũng như các đối tượng nộpthuế. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, chínhsách thuế GTGT cần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các đối tượngnộp thuế để tạo ra mặt bằng pháp lý, môi trường cạnh tranh lành mạnh chocác doanh nghiệp, kích thích tăng trưởng kinh tế.2.1.3 Nguyên tắc kế thừa.Khoa Kế toán14Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiVì thuế GTGT là một loại thuế mới đối với nước ta, rất xa lạ đối vớidân chúng, do vậy để xây dựng một chính sách thuế hữu hiệu đòi hỏi chúngta phải nghiên cứu, học hỏi, cân nhắc tiếp thu kinh nghiệm các nước, cũngnhư trong khu vực và trên thế giới trong việc áp dụng chính sách thuế GTGTđể kế thừa những yếu tố hợp lý, vận dụng một cách có hiệu quả vào điềukiện thực tế nước ta, đồng thời từng bước hội nhập với các nước.2.1.4 Nguyên tắc khả thi.Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng chính sách thuế GTGT phảidựa trên luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn của nền kinh tế xã hội hiện hữu,các quy định của chính sách thuế phải phù hợp với trình độ quản lý của cánbộ thuế và phải căn cứ vào khả năng đóng góp của người chịu thuế. Trongđiều kiện đất nước ta khi mức thu nhập dân cư còn thấp, trình độ quản lýthuế và ý thức về thuế của người dân chưa cao nên cần xác định mức độngviên vừa phải, cơ cấu thuế suất đơn giản hợp lý.2.1.5 Nguyên tắc đồng bộ.Khi xây dựng một chính sách thuế cần xét tới yếu tố tổng thể của cảhệ thống thuế để tránh những sự lạc hậu mâu thuẫn giữa các chính sách thuếvới nhau, từ đó đảm bảo tính thống nhất, bổ sung, hỗ trợ nhau nhằm pháthuy tối đa tác dụng của chính sách thuế cũng như của cả hệ thống thuế.Trong điều kiện nước ta khi xây dựng chính sách thuế GTGT, cần chú ý xâydựng các chính sách thuế có liên quan khác như :thuế xuất nhập khẩu, thuếtiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp.2.2 Một số ý kiến đề nghị hoàn thiện thuế GTGT.Dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản xây dựng một chính sáchthuế hữu hiệu nêu trên, kết hợp với kinh nghiệm các nước và kết quả triểnkhai thực hiện thuế GTGT trong thời gian qua, xin có một số kiến nghị đềxuất nhằm hoàn thiện chính thuế GTGT ở nước ta trong thời gian tới.Khoa Kế toán15Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantới2.2.1 Quy định lại đối tượng chịu thuế và không chịu thuế.Hiện nay luật thuế GTGT quy định tất cả các hàng hoá dịch vụ dùngcho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuếGTGT trừ 26 hàng hoá và nhóm hàng hoá dịch vụ quy định tại điều 4 củaluật thuế. Khi một hàng hoá dịch vụ không thuộc diện chịu thuế thì đươngnhiên cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ không được khấu trừ thuế GTGT đầuvào, trong trường hợp này thuế GTGT đầu vào sẽ làm tăng chi phí, mặt kháccơ sở nào sử dụng các hàng hoá, dịch vụ đó làm đầu vào cho sản xuất kinhdoanh lại cũng không được khấu trừ hoặc theo tỷ lệ quy định hiện nay là chokhấu trừ một tỷ lệ từ 1 - 5% tuỳ từng trường hợp cụ thể. Làm như vậy vừathiếu cơ sở khoa học, vừa lộn xộn, khó kiểm soát được việc thực hiện thuế,công tác ghi chép kế toán gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời gian tới chúngta nên bỏ điều 4 tức là nên đưa tất cả các hàng hoá dịch vụ vào chịu thuếGTGT. Khi đó việc khấu trừ thuế chỉ được thực hiện dựa trên một cơ sởđồng nhất là hoá đơn, chứng từ. Đối với một vài trường hợp đặc biệt cầnmiễn thuế nên có quy định riêng mà không nên đưa tất cả vào luật, mặt kháckhi hàng hoá đã được miễn thuế GTGT thì không được khấu trừ thuế đầuvào và các cơ sở sử dụng những hàng hoá này làm nguyên liệu đầu vào cũngsẽ không được khấu trừ khống như hiện nay.2.2.2. Sửa đổi lại thuế suất.Thuế GTGT hiện hành đang áp dụng 4 mức thuế suất 0%, 5%, 10%và 20%. Việc chuyển từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu sang 4 mứcthuế suất của thuế GTGT trong giai đoạn đầu là hợp lý nhưng xét về mặt lâudài thì chỉ nên sử dụng ở mức thuế suất 0% và 10%. Mức 0% áp dụng chohàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, còn mức 10% áp dụng cho các hàng hoá dịchvụ khác. Vì như chúng ta đã biết thuế GTGT là loại thuế được thực hiện mộtcách liên tục qua các khâu sản xuất, lưu thông của hàng hoá, dịch vụ màKhoa Kế toán16Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớithuế phải nộp được tính bằng chênh lệch giữa thuế đầu ra và thuế đầu vàonên tổng số thuế GTGT phải nộp của một hàng hoá, dịch vụ nào đó hoàntoàn phụ thuộc vào giá cả và thuế suất ở công đoạn sau cùng. Điều đó chothấy nếu ở các khâu trước được tính với thuế suất thấp thì được khấu trừ ít,còn nếu thuế được tính với thuế suất cao thì sẽ được khấu trừ nhiều hoặcđược hoàn thuế. Như vậy ở các khâu trung gian thuế suất cao hay thấpkhông ảnh hưởng đến tổng số thuế phải nộp cho các sản phẩm nên chỉ việcsử dụng một mức thuế suất (không kể mức 0%) như trên là hợp lý.Sử dụng hai mức thuế suất 0% và 10% một mặt đáp ứng được yêu cầukhuyến khích xuất khẩu và mặt khác để thực hiện mục tiêu không làm giảmsố thu của ngân sách Nhà nước. Điều đó cũng làm cho công tác tính toán,thu nộp, quản lý thuế dễ dàng thuận tiện hơn.2.2.3. Hoàn thiện thêm về phương pháp tính thuế.Để việc tính toán thuế không bị trùng, chồng chéo và tránh được thuếtính trên thuế thì phương pháp tính thuế là vấn đề mang tính quyết định. Đểtính được thuế trên phần GTGT người ta có thể tính trực tiếp ở phần giá trịtăng thêm hoặc tính một cách gián tiếp tức là tính trùng sau đó loại phầntrùng lặp đi. Về mặt cơ sở khoa học thì cả hai cách tính đều hợp lý và cả haicách tiếp cận đều phải tính trên giá thực của hàng hoá (giá chưa có thuế).Trên thực tế có rất nhiều lý do nên người ta không sử dụng phương pháptrực tiếp mà nó chỉ tồn tại trên lý thuyết. Một trong những lý do chủ yếu làdo phương pháp trực tiếp chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp không cóđầy đủ hoá đơn, chứng từ và việc ghi chép sổ kế toán. Khi đó các doanhnghiệp nộp thuế chủ yếu theo hình thức khoán, mà việc này là nguyên nhâncủa tình trạng trốn thuế.Khoa Kế toán17Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiVì vậy về phương pháp tính thuế GTGT chỉ nên sử dụng một phươngpháp là phương pháp khấu trừ, còn trong điều kiện không đủ điều kiện tínhtheo phương pháp khấu trừ thì tính theo phương pháp khoán.Chỉ áp dụng một phương pháp tính thuế sẽ làm cho việc tính thuế cócơ sở khoa học, hoàn toàn dựa trên cơ sở hoá đơn chứng từ không có khấutrừ khống. Việc tính thuế theo phương pháp khoán chỉ áp dụng doanh thukinh doanh thấp và chưa quản lý sổ sách kế toán, hơn nữa đây là những cơsở kinh doanh trực tiếp bán cho người tiêu dùng là chủ yếu. Cần quy định thêm về thuế GTGT đối với hộ kinh doanh nhưnộp thuế theo phương pháp khoán.Với phương pháp tính thuế đã nêu ở trên, trong điều kiện nước ta theotính toán sơ bộ có khoảng 1,2 triệu hộ kinh doanh hoạt động chủ yếu trongcác ngành dịch vụ. Sự tồn tại của các hộ kinh doanh nhỏ là một tất yếukhách quan bởi vì còn rất nhiều “khoảng trống” mà các doanh nghiệp lớnkhông thể “lấp kín” được. Vì vậy, để nó tồn tại và phát huy tác dụng chúngta phải có một cơ chế phù hợp.Quy định mức doanh thu bán hàng giới hạn cho các hộ kinh doanhnhỏ. Trong điều kiện nước ta mức này là 1,5 tỉ đồng một năm. Nếu hộ kinhdoanh có mức nhỏ hơn mức doanh thu quy định thì được coi là hộ kinhdoanh nhỏ. Hộ kinh doanh nhỏ sẽ thực hiện nộp thuế GTGT theo phươngpháp khoán.Thực hiện quản lý tốt các hộ kinh doanh nhỏ để thống nhất thu thuếtrong thời gian trước mắt việc hoàn thiện thuế GTGT đối với hộ kinh doanhnhỏ như trên là phù hợp không làm xáo trộn việc quản lý và thu thuế, thúcđẩy sản xuất, kinh doanh hộ cá thể phát triển. Về lâu dài cần xây dựng luậtthuế riêng cho hộ kinh doanh nhỏ có thể bao gồm cả thuế GTGT và thuế thunhập doanh nghiệp. Tách hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi sự điều tiết của hai luậtKhoa Kế toán18Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớithuế trên và những hộ sản xuất kinh doanh loại này phải chịu một mức thuếtối thiểu do Nhà nước quy định.2.2.4 Điều chỉnh các luật thuế có liên quan.Thuế GTGT chỉ có thể áp dụng khi nó được đặt trong mối quan hệbiện chứng với các luật thuế khác. Điều đó cho thấy việc điều chỉnh các luậtthuế liên quan là một trong các điều kiện không thể thiếu khi áp dụng thuếGTGT. Trong khuôn khổ của giải pháp này xin được đề xuất hoàn thiện mộtsố luụât thuế cơ bản như thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế xuất khẩu, nhậpkhẩu.Về thuế tiêu thụ đặc biệt.Thuế TTĐB là thuế gián thu, người chịu thuế là người mua hàng hoá,dịch vụ (người tiêu dùng). Đối tượng của loại thuế này là những loại hànghoá, dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích sản xuất và tiêu dùng nhưthuốc lá, rượu bia. Khi nước ta tham gia vào khối thương mại tự do(AFTA)và thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT),để đảm bảo cho nền kinh tế trong nước phát triển, việc chuyển hàng hoánhập khẩu sang đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TTĐB là hợp lý. Cũngnhư phần trên đã đề xuất sẽ đưa tất cả hàng hoá sang chịu thuế GTGT cónghĩa là hàng hoá đã chịu thuế TTĐB cũng phải chịu thuế GTGT. Vấn đềđặt ra là cần phải xác định được thuế suất thuế TTĐB như thế nào cho phùhợp. Hiện nay đối tượng chịu thuế TTĐB gồm 8 hàng hoá và 4 dịch vụ vớimức thuế suất thấp nhất là 5% cao nhất là 10%. Theo dự tính chương trìnhcắt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá cao nhất chỉ còn 5% được hoàn thành vàonăm 2006. Vì vậy chúng ta nên mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB thêmmột số mặt hàng nữa như một số hàng mỹ phẩm, hàng hoá tiêu dùng nhưgiầy dép, quần áo nhập ngoại, hàng điện tử... khi dịch chuyển những hànghoá, dịch vụ đã chịu thuế TTĐB sang chịu thuế GTGT, thuế sẽ bị tính trùng,Khoa Kế toán19Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớivì thế để đảm bảo tính công bằng, giá cả hàng hoá không bị biến động lớn,chúng ta phải thực hiện việc giảm bớt thuế suất thuế TTĐB, để sau đó tínhthêm thuế GTGT.Đối với thuế xuất khẩu, nhập khẩu.Công cuộc cải cách thuế xuất phát từ đòi hỏi bức xúc của thực tiễn vớihai lý do chủ yếu:Thứ nhất: thuế doanh thu có nhiều nhược điểm dẫn đến kìm hãm sự pháttriển sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ.Thứ hai: xu hướng hội nhập kinh tế thế giới mà trước mắt là việc gia nhậpvào khối mậu dịch tự do (AFTA) và thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan(CEPT) để thúc đẩy việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thànhviên trong khối. Thực tiễn trên buộc ta phải thay đổi lại thuế nhập khẩu chỉcòn tối đa 5% sẽ kết thúc vào năm 2006.Trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, trình độ kĩ thuật công nghệcòn thấp làm cho giá thành sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước bao giờcũng cao hơn so với hàng hoá nhập ngoại, nên hàng hoá trong nước khôngthể cạnh tranh được với hàng hoá của nước ngoài, nếu chỉ thực hiện giảmthuế nhập khẩu mà giữ nguyên các chính sách thuế khác. Vì thế khi thuếxuất thuế nhập khẩu bị hạ thấp sẽ là một trong những khó khăn rất lớn chosản xuất trong nước. Đó là một trong những lý do bắt buộc phải thay thếthuế doanh thu bằng thuế GTGT và thêm vào đó là phải đưa hàng hoá nhậpkhẩu sang đối tượng chịu thuế GTGT để bảo vệ sản xuất trong nước.Khi thực hiện thu thuế TTĐB và thuế GTGT trên hàng nhập khẩuthực ra là đánh thuế chồng lên thuế. Khi đó việc tính toán thuế có thể phứctạp hơn, tổng thuế phải nộp của cơ sở kinh doanh và thuế phải chịu củangười tiêu dùng có thể thay đổi. Để hạn chế và khắc phục những vướng mắctrên cần chọn thuế GTGT là thuế chủ đạo và thay đổi các luật thuế khác nhưKhoa Kế toán20Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiluật thuế TTĐB và thuế xuất khẩu, nhập khẩu làm cho hệ thống thuế pháthuy hết tác dụng.2.2.5 Phương pháp kế toán quản lý thuế GTGT.Trong công tác quản lý và thu thuế, thông tin số liệu kế toán là căn cứđể tính thuế bởi vậy bài viết này xin đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiệnphương pháp kế toán xét từ khía cạnh quản lý thuế GTGT.Kế toán thực hiện việc ghi chép, xử lý, tổ hợp và cung cấp thông tinvề thuế GTGT bằng các phương pháp kế toán như: phưong pháp chứng từ,phương pháp tính giá,phương pháp tài khoản và phương pháp tổ hợp cân đốisố liệu.Thứ nhất: hệ thống hoá đơn chứng từ chẳng có liên quan đến kế toán, thuếGTGT hiện nay đã đảm bảo tương đối khoa học, hợp lý. Song trên thực tếviệc quản lý chứng từ hoá đơn vẫn còn nhiều khó khăn tồn tại nhiều saiphạm, gian lận khó phát hiện do sự thiếu thống nhất về chính sách chế độ màtạo ra kẽ hở hoặc có sự thông đồng giữa các đối tượng có liên quan. Để quảnlý và kiểm soát được các chứng từ hoá đơn GTGT đòi hỏi phải có sự phốikết hợp của nhiều cơ quan, đơn vị, kế toán phải có trách nhiệm kê khai, trìnhbầy thông tin liên quan đến chứng từ hoá đơn một cách rõ ràng minh bạch,vàđể kiểm tra kiểm soát. Cần kiên quyết chống việc sử dụng hoá đơn giả. Đểphát hiện hoá đơn giả ngoài việc dùng kỹ thuật đèn chiếu đòi hỏi phải nhanhchóng hoàn thiện việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lýhoá đơn do Bộ tài chính phát hành mã và mã số đăng ký thuế của các đơn vịkinh doanh. Khi bán hoá đơn cho mã số nào, sẽ đưa kí hiệu hoá đơn đó lưuvào máy tính. Mặt khác các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chếđộ hoá đơn, kế toán, tạo thành thói quen bán hàng xuất hoá đơn, mua hàngđòi hoá đơn theo quy định của Bộ tài chính.Khoa Kế toán21Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiThứ hai: vận dụng phương pháp tính giá, đòi hỏi kế toán phải xác định đượcgiá tính thuế GTGT. Ở đây cần xem xét thêm việc tính giá thuế GTGT theophương pháp trực tiếp bởi lẽ theo trường hợp này:Số thuế GTGTPhải nộp=Giá trị gia tăngcủa hàng hoá,dịch vụGTGT của hànghoá, dịch vụ=Giá thanh toán củahàng hoá, dịch vụ bánraThuế suất thuếGTGTx_Giá thanh toán củahàng hoá, dịch vụmua vào tương ứngNhư vậy cơ sở tính thuế GTGT là phần GTGT được tính trên cơ sởgiá thanh toán và hàng hoá dịch vụ bán ra và mua vào là giá bao gồm cả thuếGTGT, và vô hình chung đã đánh thuế chồng lên thuế, điều này trái ngượcvới ưu điểm vốn có của thuế GTGT.Để khắc phục tình trạng này, cuối mỗi kỳ cần thiết phải tính ra giá trịhàng hoá bán ra, mua vào để tính GTGT từ giá cả thanh toán hàng hoá,dịchvụ bán ra và mua vào theo công thức:Trị giá hàng hoá, dịchvụ bán ra (mua vào)để tính GTGT=Giá thị trường của hàng hoá,dịch vụ bán ra (mua vào)1+ Thuế suất thuế GTGTGTGT của hànghoá, dịch vụTrị giá hàng hoá, dịchvụ bán ra để tính=GTGTTrị giá hàng hoá,dịch vụ mua vào đểtính GTGTThứ ba: Vận dụng phương pháp tài khoản để hạch toán và quản lý trực tiếpvào chi phí quản lý doanh nghiệp là không phù hợp với bản chất của nghệpvụ kinh tế phát sinh, bởi lẽ thuế GTGT được khái niệm như một loại thuếgián thu cho dù doanh nghệp có áp dụng theo phương pháp tính thuế nào thìKhoa Kế toán22Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớikhoản thuế này cũng phải được xem như khoản thu hộ của Nhà nước thôngqua người tiêu dùng. Do đó để phù hợp với phương pháp ghi nhận chi phítheo những nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận thì khoản thuế này nênđược ghi giảm trừ vào doanh thu tương tự phương pháp hạch toán thuếdoanh thu trước đây.Xét từ khía cạnh để quản lý, kiểm soát thuế GTGT cần có cách kêkhai phù hợp, hơn nữa lại phục vụ cho cả việc tính giá tài sản hình thành vàxác định giá tính thuế GTGT, cần thiết có một tài khoản để phản ánh toàn bộgiá thanh toán của hàng mua vào tương tự hàng bán ra, nên chăng các doanhnghiệp sử dụng TK 611:”mua hàng” bất kể là hạch toán hàng tồn kho theophương pháp kê khai thường xuyên hay kiểm kê định kỳ, hàng mua về cóqua kho hay sử dụng ngay. Căn cứ vào TK 611 trước hết có thể tính giá vốncủa tài sản để liên kết chuyển vào tài khoản có liên quan, mặt khác kế toántheo dõi chi tiết mua hàng cho từng loại hàng hoá chịu thuế suất khác nhaucũng theo dõi chi tiết phần tính vào giá vốn hàng mua nhưng không chịuthuế GTGT. Theo cách này vừa đảm bảo dễ kiểm tra, kiểm soát trong quảnlý thu thuế GTGT.Ngoài ra việc vận dụng TK 133 cần có sự nghiên cứu xem xét lại cáchghi chép của TK để phục vụ cung cấp số liệu lập mục I, II của phần III “thuếGTGT được khấu trừ, được hoàn lại và được miễn giảm” trên Báo cáo kếtquả kinh doanh, đặc biệt là mục II “Thuế GTGT được hoàn lại” được lậpdựa trên cơ sở số liệu của sổ chi tiết” thuế GTGT được hoàn lại” (mẫu sốS02 - doanh nghiệp), theo như cách ghi chép hiện nay thì sổ S02 - doanhnghiệp chưa đúng nghĩa là sổ kế toán, vì vậy cần tổ chức lại TK 133 gồmcác TK cấp 2 và cấp 3 như sau:+ TK 1331: Thuế GTGT được khấu trừ.Trong đó:Khoa Kế toán23Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantới13311: Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá dịch vụ.13312: Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ+ TK 1332: Thuế GTGT được hoàn lại.Và trình tự ghi chép đối với thuế GTGT được hoàn lại:- Khi nhận được thông báo của cơ quan thuế về số thuế GTGT chohoàn thuế phát sinh trong kỳ, kế toán ghi chi tiết:Nợ TK 1332.Có TK 1331.- Khi thuế GTGT đầu vào đã được hoàn lại, kế toán ghi:Nợ TK 111, 112.Có TK 1332.Với cách hạch toán như vậy đảm bảo cho việc ghi chép trên sổ chi tiếtcũng như trình bầy trên Báo cáo tài chính thuận tiện mà không làm sai bảnchất của vấn đề.Tóm lại từ những vấn đề trên trong thời gian tới đòi hỏi cơ quan thuếvà các cơ quan chức năng khác của Nhà nước nghiên cứu nhằm hoàn thiệncác chính sách chế độ liiên quan đến thuế GTGT cho thích hợp hơn để kếtoán thực sự là một công cụ phục vụ cung cấp thông tin làm căn cứ tính thuếGTGT hợp lý hơn, đồng thời là căn cứ kiểm tra giám sát việc chấp hành luậtthuế và các chính sách chế độ kế toán tài chính một cách hữu hiệu hơn.2.2.6 Tổ chức thực hiện thuế GTGT.Để chính sách thuế GTGT thực sự đi vào đời sống kinh tế xã hội mộtcách hữu hiệu, để triển khai thuế GTGT thuận lợi, không gây đảo lộn chínhsách và mục tiêu của luật, phát huy tác dụng của luật thuế mới trong quản lýkinh tế vĩ mô, kích thích các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được hiệuquả trước mắt cũng như trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ và nghiêmtúc các biện pháp sau:Khoa Kế toán24Thuế GTGT, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời giantớiChú trọng thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn chođội ngũ cán bộ thuế và trang bị phương tiện hiện đại, cần thiết đáp ứng yêucầu của công tác quản lý thu thuế GTGT. Đây là khâu quan trọng quyết địnhtính thực thi, hiệu quả của chính sách thuế GTGT, bởi việc quản lý thu thuếrất phức tạp nên nếu trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế yếu haythiết bị phương tiện quản lý lạc hậu sẽ không thể quản lý tốt thuế GTGT làmgia tăng hiện tượng trốn thuế gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Nếu thuếGTGT được quản lý tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy thực hiện nghiêm túc côngtác sổ sách, chứng từ hoá đơn, giúp khắc phục tình trạng thất thu thuế.Đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền chính sách thuếGTGT đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội để mọi người hiểu rõ và nắmđược những ưu điểm của thuế GTGT, tránh những hiểu lầm, nhận thứckhông đúng gây ngộ nhận do không hiểu biết về thuế GTGT tạo kẽ hở chokẻ khác lợi dụng gây bất an trong nhân dân, qua đó khuyến khích mọi ngườian tâm mạnh dạn đầu tư vốn để giúp nền kinh tế có thêm lượng vốn cần thiếtcho nhu cầu phát triển.Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế thực hiện đồng bộnghiêm túc các biện pháp kinh tế, nghiệp vụ và hành chính trong công tácthu thu thuế GTGT nhằm ngăn chặn, hạn chế tình trạng hoá đơn, chứng từ,hợp đồng giả, khống, thiếu độ tin cậy để trốn thuế, gây thất thu cho ngânsách Nhà nước, thị trường biến động, cơ cấu lao động xã hội bị xáo trộn.Làm tốt việc sắp xếp lại các doanh nghiệp, thúc đẩy các doanh nghiệpcải tiến quản lý sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ thiết bị, nâng caonăng lực sản xuất tạo ra cho được các sản phẩm có sức cạnh tranh trênthương trường để doanh nghiệp vừa đảm bảo đóng góp cho nhân sách choNhà nước vùa có điều kiện phát triển sản xuất. Cần có các biện pháp tháo gỡKhoa Kế toán25