Ngành ngoại giao đa phương là gì

Ngành “Ngoại giao đa phương” là gì?

“Ngoại giao đa phương” là gì?

Ngành ngoại giao đa phương là gì
Ông Đỗ Hùng Việt, Vụ trưởng Các tổ chức quốc tế phát biểu tại hội thảo.

Ngoại giao đa phương đang trở thành một xu thế nổi bật trong đời sống quan hê quốc tế hiện nay. Trong bối cảnh đó, đối ngoại đa phương được nhận định như một bộ phận quan trọng của Đối ngoại Việt Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

 

 

 

 

Hội thảo “Chuyển giao và phổ biến môn học Ngoại giao đa phương”

Ngày 02-10 tại Hà Nội, Học viện ngoại giao đã phối hợp Quỹ Konrad Adenauer Stiftung (KAS) đã tổ chức hội thảo với chủ đề “Chuyển giao và phổ biến môn học Ngoại giao đa phương”, với sự tham dự của nhiều cán bộ từ Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại T.Ư Đảng, Viện KAS, các giáo sư và nhà nghiên cứu đến từ các trường đại học, học viện trên cả nước, như: Học viện Ngoại giao, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Huế, Đại học Hồng Bàng,…

Theo ông Đỗ Hùng Việt, Vụ trưởng Các tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, vị thế của một Việt Nam độc lập, thống nhất với những quyền dân tộc cơ bản trên trường quốc tế đã được khẳng định nhờ các công tác đối ngoại đa phương hiệu quả. Đối ngoại đa phương đã góp phần hình thành mặt trận quốc tế rộng rãi ủng hộ và hỗ trợ Việt Nam đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước, đối ngoại đa phương Việt Nam đã triển khai toàn diện trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội và văn hóa. Các hoạt động đối ngoại đa phương được thực hiện ngày càng tích cực, chủ động, đa dạng về cấp độ và phương thức, nhờ đó mà đã gặt hái được những thành tựu to lớn.

Ngành ngoại giao đa phương là gì

Toàn cảnh hội thảo “Chuyển giao và phổ biến môn học Ngoại giao đa phương”.

Những kết quả đáng ghi nhận của công tác đối ngoại đa phương đã đóng vai trò quan trọng trong việc phá thế bao vây cấm vận, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, bên cạnh việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tăng cường và củng cố các mối quan hệ song phương, cũng như nâng cao vị thế đất nước, thu hút mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước.

Trên thực tế, việc triển khai công tác đối ngoại đa phương vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục như tư duy, cách tiếp cận. Điều này đòi hỏi sự cấp thiết đào tạo một đội ngũ cán bộ đa phương bảo đảm về mặt số lượng, có bản lĩnh chính trị, vững chắc về kỹ năng, trình độ chuyên môn, có đủ tính chủ động để đóng góp, đề xuất sáng kiến.

Đối ngoại đa phương của Việt Nam năm 2020 có hai nhiệm vụ quan trọng, trên cương vị là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và Chủ tịch ASEAN.

Với vị thế đang ngày càng được cộng đồng quốc tế công nhận, Ngoại giao đa phương đứng trước yêu cầu trở thành một môn học đối với những người học ngành Ngoại giao và Quan hệ quốc tế, góp phần cung cấp những kiến thức, kỹ năng cần thiết để đóng góp vào sự nghiệp đối ngoại đa phương của Việt Nam.

Hội thảo “Chuyển giao và phổ biến môn học Ngoại giao đa phương” nhằm mục đích cung cấp thông tin thực tiễn về công tác đối ngoại đa phương của Việt Nam, cũng như chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy, tiếp thu môn học mới này.

Lợi ích rõ ràng

Trao đổi với phóng viên, Giáo sư Carl Thayer nhận xét, chính sách ngoại giao đa phương đem lại “những lợi ích kinh tế rõ ràng”, “nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế” và là “phòng tuyến đầu tiên giúp Việt Nam bảo vệ độc lập và chủ quyền”.

Ngoại giao đa phương còn giúp Việt Nam trở nên độc lập trong các mối quan hệ quốc tế, qua đó nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế mà việc trúng cử thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 với số phiếu cao là một minh chứng rõ nét.

Nếu như giữa năm 1991, Việt Nam bắt đầu triển khai đường lối đối ngoại đa phương thì đến cuối năm, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (vào thời điểm đó, Nhật Bản nối lại viện trợ phát triển cho Việt Nam). Bốn năm sau, Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, thiết lập quan hệ với Liên minh châu Âu rồi trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN.

Theo ông Carl Thayer, những ví dụ trên cho thấy ngoại giao đa phương đã tạo dư địa giúp Việt Nam “duy trì độc lập và tự chủ trong mối quan hệ với các cường quốc”.

Từ năm 2001, Việt Nam tiếp tục khẳng định cam kết theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và mở rộng sang các lĩnh vực khác ngoài lĩnh vực kinh tế; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với một loạt nước trong đó có Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc… và gần nhất là Philippines; gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Vị chuyên gia người Australia cũng cho rằng, Việt Nam đã tích cực tham gia các kênh đối ngoại quốc phòng (kênh 1,5), kênh học giả (kênh 2) và đặc biệt là Hội đồng Hợp tác An ninh châu Á - Thái Bình Dương (CSCAP). Theo ông Carl Thayer, một trong những cơ chế hiệu quả nhất là hội thảo quốc tế hàng năm về Biển Đông. Qua bảy lần tổ chức, Hội thảo đã thu hút hàng trăm học giả trong và ngoài Việt Nam tham dự, tìm hiểu về quan điểm của Việt Nam đối với vấn đề này. Tại hội thảo năm nay, Việt Nam đồng chủ trì phiên thảo luận đặc biệt về biện pháp xây dựng lòng tin trên Biển Đông với sự tham dự của các bên liên quan, trong đó có Trung Quốc.

Tạo lòng tin chính trị

Cơ bản nhất trí với nhận định của ông Carl Thayer, ông Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược (Học viện Ngoại giao) cho rằng: Nói đến vai trò của ngoại giao đa phương, trước hết phải nói đến lòng tin chính trị (political credit) mà Việt Nam tạo dựng được nhờ triển khai các hoạt động ngoại giao đa phương.

Lòng tin chính trị là lợi ích vô cùng quan trọng mà không dễ dàng đo đếm được. Lòng tin, như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng đề cập là “khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác”. Kế đến mới là lợi ích kinh tế, biểu hiện rõ nét nhất là lợi ích kinh tế trong ASEAN. Sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN, do Việt Nam đưa ra, để giúp các nước Lào, Campuchia, Myanmar và Việt Nam hội nhập khu vực hiệu quả hơn, đã và đang được lồng nghép trong các cơ chế hợp tác của ASEAN cùng với sự tham gia của các nước lớn trong và ngoài khu vực.

Ở cấp độ toàn cầu, lợi ích đa phương khó nhận ra hơn. Khi đảm nhiệm vị trí thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam đã thuyết phục các nước không đưa vấn đề Myanmar vào chương trình nghị sự, qua đó góp phần giúp Myanmar tránh được lệnh cấm vận của Liên hợp quốc, từ đó mở ra chuyến thăm Myanmar của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 4/2010, trong đó hai bên nhất trí 14 lĩnh vực hợp tác.

Trên cấp độ liên khu vực, tham gia tiến trình hội nhập APEC, gần đây nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), có thể thấy ngoại giao đa phương dần mở ra các kênh hợp tác mới về thương mại, đầu tư tài chính rồi đến những lĩnh vực chuyên sâu hơn như bảo hộ sở hữu trí tuệ.

Nhìn chung, chính sách ngoại giao đa phương từng bước giúp Việt Nam chủ động hơn trong tất cả các khâu từ khâu đầu vào của sản xuất cho tới khâu đầu ra của sản phẩm.

Về uy tín quốc tế, các nước nhìn nhận Việt Nam với một vị thế đang lên cùng với chính sách mở cửa, hội nhập nhất quán. Đại sứ Australia tại ASEAN Simon Merrifield từng nói rằng, Việt Nam đã rất tự tin trong xử lý quan hệ với các nước lớn, thể hiện rõ nét qua chuyến thăm Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2015.

Tại Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 21) vừa qua, đoàn Việt Nam không chỉ đóng góp vào đàm phán trực tiếp về mặt kỹ thuật và chính trị để đạt được thỏa thuận cuối cùng mà còn tổ chức thành công phiên đối thoại cấp cao “Việt Nam chung tay cùng các đối tác quốc tế ứng phó với các thách thức của biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long” được bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Hồi đầu tháng 12, Bộ Ngoại giao phối hợp với phía Mỹ tổ chức hội thảo thực hiện Sáng kiến Hạ lưu Sông Mekong (LMI) và những người bạn của Mekong với sự tham dự của đại diện các nước liên quan và nhà tài trợ nhằm đưa ra các dự án cụ thể về chống biến đổi khí hậu, bảo vệ an ninh nguồn nước, phát triển sinh kế cho 24 triệu dân Việt Nam dọc sông Mekong.

Thể hiện trách nhiệm

Theo ông Thái, đóng góp lớn nhất của ngoại giao đa phương trong những năm vừa qua đối với khu vực và thế giới là đề cao được luật pháp và chuẩn mực quốc tế, nhất là trong xử lý vấn đề biển đảo, an ninh, an toàn hàng hải.

Việc tham gia ngày càng tích cực, chủ động vào các tiến trình hợp tác của khu vực và trên thế giới, bắt đầu từ kinh tế thương mại, dần dịch chuyển sang các lĩnh vực nhạy cảm như an ninh quốc phòng và lĩnh vực chuyên ngành sẽ góp phần duy trì các thiết chế hiện nay vận hành ổn định, duy trì luật lệ, chuẩn mực quốc tế được tôn trọng.

Về kinh tế, khi Việt Nam ổn định, phát triển và mở cửa, các nước trong và ngoài khu vực đều có cơ hội tiếp cận thị trường tiềm năng với 90 triệu dân của Việt Nam để cùng hợp tác phát triển.

Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia đàm phán và ký kết Hiệp định TPP thể hiện cam kết sẵn sàng tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu với chuẩn mực cao, trở thành một ví dụ điển hình về việc một quốc gia chủ động, tích cực hội nhập dù trình độ phát triển đang còn ở mức trung bình.

Với việc quan tâm thúc đẩy hợp tác chuyên ngành như bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước sông Mekong, hay phát triển điện hạt nhân, Việt Nam đã thể hiện trách nhiệm của mình đối với sự ổn định và phát triển lâu dài của khu vực.

Đồng điệu với ngoại giao song phương

Ông Thái cho rằng bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nếu muốn đóng vai trò lớn hơn, chủ động hơn trong quan hệ quốc tế đều cần tiến hành các hoạt động ngoại giao song phương và đa phương, trong đó song phương là nền tảng, đa phương vừa là nền tảng nhưng vừa có tính bổ trợ. Ngoại giao đa phương đôi khi đi trước mở đường cho hoạt động ngoại giao song phương.

Một ví dụ điển hình là cuối những năm 1980, dù chưa là thành viên của ASEAN nhưng khi Việt Nam điều chỉnh nhận thức về ASEAN, các nước Indonesia hay Malaysia, Singapore đã chủ động đẩy nhanh tiến trình xây dựng quan hệ song phương với Việt Nam.

Những năm qua, với sự chủ động của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương, vấn đề Biển Đông đã trở thành mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trên khía cạnh tuân thủ luật pháp quốc tế, chuẩn mực ứng xử hay vấn đề an toàn, an ninh và tự do hàng hải trên Biển Đông tạo thuận lợi cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.

Nội dung trên đây chỉ mang tính tham khảo, Cảm ơn các bạn đã theo dõi.