Thế nào là nghiên cứu tâm lý học sinh tiểu học

20 nguyên tắc tâm lí giúp học sinh học tập hiệu quả hơn (phần 1)

Những giáo viên tiếp xúc thường xuyên với các lí thuyết về phương pháp hứa hẹn sẽ cải thiện cả về chiến lược giảng dạy cũng như việc học của học sinh thông qua các đợt tập huấn, các cuộc họp tổ chuyên môn, hội thảo và phương tiện truyền thông. Bên cạnh những thông tin hữu ích, hầu hết các đề xuất đều ít hoặc không tính thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy.

Những giáo viên tiếp xúc thường xuyên với các lí thuyết về phương pháp hứa hẹn sẽ cải thiện cả về chiến lược giảng dạy cũng như việc học của học sinh thông qua các đợt tập huấn, các cuộc họp tổ chuyên môn, hội thảo và phương tiện truyền thông. Bên cạnh những thông tin hữu ích, hầu hết các đề xuất đều ít hoặc không tính thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy. Nhóm nghiên cứu về Tâm lý học trong Trường học và Giáo dục (CPSE), tập hợp một số nhà tâm lý học và giáo viên tâm lý học trong APA, mới đây đã công bố xuất bản 20 nguyên tắc Tâm lý học hàng đầu trong Dạy và Học cho trẻ dưới 3 tuổi đến 12 tuổi được đề xuất bởi các nhà tâm lý học đại diện cho rất nhiều bộ phận, bao gồm những người quan tâm về giáo dục, các trường học, xã hội, nhận thức, tâm lý, phương tiện truyền thông, tư vấn và tâm lý học lâm sàng. Mỗi người đều có đóng góp chuyên môn trong việc áp dụng khoa học tâm lý vào giáo dục mầm non, tiểu học, trung học, giáo dục năng khiếu hoặc giáo dục đặc biệt; học tập xã hội / cảm xúc; hay không gian trường học.

Các nguyên tắc được tổ chức thành năm lĩnh vực hoạt động tâm lý: nhận thức và học tập; động lực; các vấn đề xã hội và cảm xúc; bối cảnh và học tập; đánh giá. Mỗi nguyên tắc riêng được liệt kê trong tài liệu bao gồm giải thích về khái niệm này, sự liên quan của nó đối với việc giảng dạy, các lời khuyên cụ thể cho giáo viên và một danh sách các tài liệu tham khảo có liên quan.

Mặc dù 20 nguyên tắc hàng đầu được thiết kế để áp dụng khoa học tâm lý rộng rãi cho trẻ dưới 3 tuổi đến 12 tuổi, nhưng chúng cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ chương trình giảng dạy trong việc giới thiệu các khóa học tâm lý và giúp học sinh phát triển các kỹ năng nâng cao hiệu quả học tập trong tất cả lớp học. Dưới đây là tổng quan về các nguyên tắc và các ứng dụng tiềm năng của tâm lý học ở trường trung học.

Nhận thức và học tập: Học sinh tư duy và học tập như thế nào?

Rất nhiều nghiên cứu từ góc độ tâm lý học nhận thức và giáo dục đã phát hiện ra việc tư duy và học tập có thể được cải thiện trong lớp học như thế nào? 8 nguyên tắc đầu tiên nêu bật một số phát hiện quan trọng nhất trong thực tiễn giảng dạy mà ảnh hưởng đến sự phát triển của học sinh.

  1. Tư duy phát triển

Niềm tin của học sinh hoặc nhận thức về trí thông minh và khả năng của bản thân có ảnh hưởng đến chức năng nhận thức và học tập của họ.

Nghiên cứu cho thấy rằng những người học nắm bắt được tư duy phát triển thì trí thông minh linh hoạt. Sự thành công của họ liên quan đến mức độ nỗ lực, thường có xu hướng tập trung vào các mục tiêu và vẫn tồn tại kể cả khi học sinh không thành công. Một cách tuyệt vời để bắt đầu năm học trong một lớp tâm lý là thảo luận về tư duy phát triển và tư duy cố định bởi vì nó giúp học sinh hiểu được niềm tin của họ về trí thông minh có thể ảnh hưởng như thế nào đến thành công trong học tập của chính họ. Để biết thêm thông tin tư duy cố định và tư duy phát triển, cũng như sự ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả học tập của học sinh, hãy xem bài thuyết trình TED (những bài diễn thuyết mang tính truyền cảm hứng được ghi lại tại các sự kiện của tổ chức phi lợi nhuận TED) của nhà tâm lý học Carol Dweck. Một bài thuyết trình TED của Angela Lee Duckworth thảo luận về vấn đề việc học của học sinh có thể được kiểm tra dựa trên động lực và minh hoạ cách mà các đặc điểm cá nhân tác động đến thành công, được hình thành thông qua việc dạy tư duy phát triển. Ngoài những ý tưởng cụ thể trong top 20 tài liệu giáo viên có thể sử dụng nhằm khuyến khích học sinh hình thành tư duy phát triển, cũng có một môđun trực tuyến APA được đánh giá cao vì cung cấp các ví dụ tuyệt vời về cách giáo viên có thể tương tác tốt nhất với học sinh nhằm thúc đẩy sự phát triển.

Thế nào là nghiên cứu tâm lý học sinh tiểu học

  1. Kiến thức nền

Những gì học sinh đã biết có tác động đến việc học của họ.

Nghiên cứu cho thấy rằng kiến thức nền ảnh hưởng đến sự hình thành và thay đổi khái niệm trong học sinh. Cùng với sự phát triển khái niệm, học sinh gia tăng kiến thức hiện có của họ và sửa lại quan niệm hoặc sai sót trong kiến thức hiện có. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hoặc thay đổi khái niệm đòi hỏi học sinh phải có mức kiến thức cơ bản trước khi bắt đầu học mỗi đơn vị kiến thức thông qua đánh giá quá trình. Có một cách để đánh giá kiến thức, đó là bắt đầu bài học với một danh sách ngắn gồm 5-10 câu trắc nghiệm đúng / sai và thảo luận về kết quả. Kết quả của cuộc thảo luận này có thể định hướng việc lựa chọn các bài tập và hoạt động phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hay thay đổi khái niệm. Kiến thức nền giúp học sinh có vốn hiểu biết và kết nối được các đơn vị kiến thức trong suốt khóa học.

  1. Giới hạn của lý thuyết giai đoạn

Sự phát triển nhận thức và học tập của học sinh không bị giới hạn bởi các giai đoạn phát triển chung.

Nghiên cứu chỉ ra rằng sự phát triển nhận thức và học tập không bị giới hạn bởi các giai đoạn phát triển chung. Điều quan trọng đối với các giảng viên dạy lý thuyết về giai đoạn nhận thức của Piaget là phải cân nhắc những hạn chế của cách tiếp cận này. Các chương trình giảng dạy tâm lý học cần nhấn mạnh tầm quan trọng của lý thuyết về vùng phát triển gần của Lev Vygotsky và vai trò thiết yếu của sự tương tác với những người có năng lực hơn trong quá trình học tập và phát triển. Các giáo viên có thể sử dụng nghiên cứu này để tạo điều kiện học tập bằng cách thiết kế hướng dẫn sử dụng khung chương trình, sự phân loại và nhóm năng lực hỗn hợp. Một điều quan trọng nữa là các học sinh xuất sắc nhất có cơ hội làm việc với những người giỏi hơn, bao gồm cả những học sinh khác hoặc người dạy.

  1. Tạo điều kiện thuận lợi

Học tập phụ thuộc vào hoàn cảnh, do đó việc học tập thích nghi với hoàn cảnh mới không phải là tự phát, mà cần được tạo điều kiện.

Sự phát triển và đào sâu kiến thức của học sinh được tiến hành khi giáo viên giúp học sinh chuyển tiếp việc học tập từ hoàn cảnh này sang hoàn cảnh khác. Học sinh sẽ có khả năng thích nghi việc học với hoàn cảnh mới nếu các giáo viên đầu tư thời gian tập trung vào việc đào sâu kiến thức. Một phương pháp phát triển kỹ năng này là để học sinh sử dụng vốn hiểu biết về một đơn vị kiến thức cụ thể, tạo ra các giải pháp tiềm năng cho các vấn đề thực tế. Các giáo viên Tâm lý học từ APA ở các trường trung học (TOPSS) đem đến một ví dụ tuyệt vời về loại nhiệm vụ này với đơn vị kiến thức tập trung vào vấn đề béo phì ở trẻ em.

  1. Thực hành

Thu thập kiến ​​thức và kỹ năng lâu dài chủ yếu phụ thuộc vào sự thực hành.

Nguyên tắc này đưa ra các chiến lược dựa trên kinh nghiệm, giúp học sinh xử lí các tài liệu học tập một cách hiệu quả hơn và đưa vào bộ nhớ dài hạn. Ngoài ra, các ví dụ từ nguyên tắc này có thể giúp đưa ra các chỉ dẫn trong suốt khóa học. Bằng cách đưa ra đánh giá quá trình thường xuyên thông qua các vấn đề thực hành, các hoạt động và các bài kiểm tra mẫu, các giảng viên có thể giúp học sinh nâng cao kiến ​​thức, kỹ năng và sự tự tin. Ngoài ra, các giảng viên thực hiện các hoạt động thực hành theo khoảng cách (phân phối thực hành) sẽ giúp học sinh đạt được sự gia tăng khả năng thu hồi lâu dài. Các bài kiểm tra thực hành bao gồm các câu hỏi mở đòi hỏi cả việc thu thập kiến ​​thức hiện tại và thách thức của việc áp dụng thông tin vào các tình huống hoặc bối cảnh mới, do đó cũng kết hợp nguyên tắc bốn. Xem thêm mô-đun giảng dạy APA về thực tiễn để đạt được tri thức.

Thế nào là nghiên cứu tâm lý học sinh tiểu học

  1. Phản hồi

Thông tin phản hồi rõ ràng, có giải thích và kịp thời cho học sinh rất quan trọng đối với việc học.

Nguyên tắc này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phản hồi của người dạy và chỉ ra cách tốt nhất để cung cấp phản hồi cho học sinh, từ đó, duy trì hoặc gia tăng động lực học tập. Cung cấp cho học sinh thông tin phản hồi rõ ràng, có giải thích và kịp thời là rất quan trọng đối với việc học. Đọc ấn bản CPSE có tiêu đề Sử dụng Dữ liệu Lớp học để Cung cấp Phản hồi Hệ thống cho học sinh nhằm Cải thiện Học tập để biết thêm thông tin về phương pháp phản hồi gồm 5 chiến lược chính.

  1. Tự điều chỉnh

Có thể dạy cho học sinh các kỹ năng học tập và tự điều chỉnh trong quá trình học tập.

Các kỹ năng tự điều chỉnh, bao gồm sự chú ý, tổ chức, tự kiểm soát, lập kế hoạch và các chiến thuật ghi nhớ, cải thiện việc học và tham gia có thể được dạy thông qua giảng bài trực tiếp, mô hình và tổ chức lớp học. Giáo viên có thể mô hình hóa các phương pháp tổ chức và hỗ trợ học sinh bằng cách nhấn mạnh các mục tiêu học tập ngay từ đầu và cuối các bài học, sử dụng lịch học, nêu bật các khái niệm khó đòi hỏi phải thực hành nhiều hơn, chia các dự án lớn thành các phần cho dễ quản lí, sử dụng rubric và dành thời gian cho việc đặt câu hỏi, tóm tắt và thực hành. Học sinh tâm lý học có thể áp dụng nghiên cứu này vào thói quen học tập của mình như thực hành tự kiểm soát bằng cách hạn chế những yếu tố gây xao nhãng (điện thoại di động và phương tiện truyền thông xã hội). Học sinh cũng có thể được khuyến khích thiết kế các thí nghiệm liên quan đến giới hạn của sự tập trung và thảo luận về những tác động thực tế của kết quả thí nghiệm.

  1. Sáng tạo

Sự sáng tạo của học sinh có thể được bồi dưỡng.

Sáng tạo được xem là một kỹ năng quan trọng trong thế giới công nghệ của thế kỷ XXI và bởi vì đây không phải là một đặc điểm ổn định nên nó có thể được dạy, được nuôi dưỡng và gia tăng. Nguyên tắc này mô tả các phương pháp cụ thể để tổ chức các bài tập tăng cường sự sáng tạo và những ý tưởng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Sáng tạo trong lớp học tâm lý có thể bao gồm các cơ hội tiến hành dự án nghiên cứu do học sinh thiết kế, các video, tiết mục và mô hình. Kế hoạch bài học của TOPSS bao gồm nhiều ý tưởng để thu hút học sinh tham gia một cách sáng tạo.

Đặng Thanh Hiền dịch

Tác giả: Nancy Fenton

Một số vấn đề về tâm lý học ở tiểu học

hoatieu.vn xin gửi tới thầy cô bài viết một số vấn đề về tâm lý học dạy học ở tiểu học để thầy cô cùng tham khảo. Tâm lý học bao gồm về sự phát triển trí tuệ học sinh tiểu học, tâm lý về sự hình thành kỹ năng học tập của học sinh... Mời thầy cô cùng tham khảo chi tiết một số vấn đề về tâm lý học ở tiểu học tại đây.

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH31

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên của giáo viên

Một số kỹ thuật dạy học tích cực ở tiểu học

Một số vấn đề về tâm lý học dạy học ở tiểu học

1. Tâm lý học về sự phát triển trí tuệ học sinh tiểu học:

a/ Nhận thức cảm tính

- Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện.

- Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...)

Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.

b./ Nhận thức lý tính

- Tư duy

Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động.

Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát

Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.

- Tưởng tượng

Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:

Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.

Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.

Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.

c/ Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.

Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.

Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.

d/ Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.

Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.

Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.

e/ Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ lôgic

Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.

Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em...

Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.

g/ Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học

Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.

Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.

Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục sự kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.

Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ,tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết,...Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.

2. Tâm lý học về sự hình thành kỹ năng học tập của học sinh:

SỰ HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM, KĨ NĂNG, KĨ XẢO Ở HỌC SINH TIỂU HỌC.

I. Sự hình thành khái niệm:

1.1 Khái niệm và vai trò của khái niệm:

* Khái niệm là gì?

- Khái niệm là logic vốn có tồn tại trong sự vật, hiện tượng. Khái niệm là sản phẩm của tâm lí có hình thức tồn tại vật chất (vật thật) và hình thành tồn tại tinh thần (trong đầu óc con người).

* Quá trình hình thành khái niệm như thế nào?

- Muốn có được khái niệm về một sự vật một hiện tượng nào đó ta cần tiến hành những hành động sau:

Quan sát nhiều mặt của vấn đề

Phân tích các đặc điểm, tính chất của các sự vật, hiện tượng quan sát

So sánh các dấu hiệu, tính chất để tìm ra những dấu hiệu bản chất chung nhất cho tất cả các vấn đề đặt ra về sự vật, hiện tượng

Tách riêng các dấu hiệu bản chất chung của sự vật, hiện tượng

Tổng hợp khái quát hóa các dấu hiệu bản chất và phát biểu định nghĩa về sự vật hiện tượng đã quan sát.

Hình thành khái niệm là quá trình chủ thể lập lại một chuỗi các thao tác mà trước đấy loài người đã thực hiện để phát hiện ra khái niệm.

Khái niệm vừa là sản phẩm vừa là phương tiện hoạt động trí tuệ.

1.2 Bản chất tâm lý của sự hình thành khái niệm:

Thông qua hành động, hoạt động chủ thể chuyển chỗ ở của khái niệm từ ngoài vào trong, biến cái vật chất thành cái tinh thần.
qua hoạt động chủ thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sửàChuyển logic khái niệm vào trong đầu của chủ thể hoạt động

Biến chúng thành tri thức, kinh nghiệm của cá nhân

Về mặt lĩnh hội đây chính là quá trình tái tạo những tri thức, kinh nghiêm xã hội - lịch sử của loài người thành vốn riêng của bản thân.

Trong dạy học muốn hình thành khái niệm cho học sinh thì GV phải tổ chức những hành động cho HS, tác động vào đối tượng theo đúng quy trình hình thành khái niệm mà các nhà khoa học đã phát hiện ra, chuyển logic của đối tượng vào trong đầu người học.

- Xác định chính xác đối tượng cần chiếm lĩnh, phương tiện và công cụ cần thiết để chiếm lĩnh đối tượng. Giáo viên là người quyết định khái niệm nào cần dạy và dạy như thế nào, khái niệm nào cần học và học như thế nào. Việc xác định đúng đối tượng cần lĩnh hội có tác dụng định hướng toàn bộ hoạt động lĩnh hội khái niệm của học sinh

1.3 Điều khiển sự hình thành khái niệm:

Để tổ chức quá trình hình thành khái niệm cho học sinh, giáo viên cần lưu ý:

- Dẫn dắt học sinh một cách có ý thức qua tất cả các giai đoạn của hành động

- Tổ chức tốt giai đoạn chiếm lĩnh cái tổng quát và giai đoạn chuyển cái tổng quát vào các trường hợp cụ thể

Vd: Khi học sinh đã biết nước bị ô nhiễm như thế nào, các em phải nhận ra nguồn nước bị ô nhiễm trong môi trường sống xung quanh thông qua việc quan sát màu nước, ngửi mùi hôi của nước, ảnh hưởng đến sự sống của sinh vật sống trong môi trường đó.

Quá trình hình thành khái niệm ở học sinh gồm các giai đoạn:

II. Sự hình thành kĩ năng, kĩ xảo:

2.1 Sự hình thành kĩ năng:

*Kĩ năng là gì?

- Kĩ năng là khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết thành công một nhiệm vụ lí luận hay thực hành xác định.

- Một số kĩ năng thường gặp trong cuộc sống: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng sống, kĩ năng viết chữ đẹp...

* Quá trình hình thành kĩ năng như thế nào?

- Những kĩ năng hình thành trước đó làm nền tảng để hình thành kĩ năng mới

- Kĩ năng được hình thành thông qua việc kết hợp giữa hành động, sự nhận thức về mục tiêu hành động và giữa mức độ thực hiện hành động.

Ví dụ: Kĩ năng viết chữ đẹp

Kĩ năng viết chữ, biết chữ là nền tảng để chúng ta có thể rèn chữ đẹp

Muốn chữ đẹp không chỉ nói suông mà thành được chúng ta phải chăm chỉ luyện tập hướng tới mục tiêu là rèn cho chữ đẹp, chính vì công việc này không dễ thực hiện nên phải có ý chí quyết tâm không bỏ giữa chừng.

* Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự hình thành kĩ năng?

Khả năng nhận dạng câu hỏi đã cho, phát hiện ra những giả thuyết đã gợi ý trong câu hỏi.

Phát hiện ra mối quan hệ bản chất ảnh hưởng bởi nội dung, nhiệm vụ của vấn đề đã cho.

Vì vậy, khi hình thành kĩ năng cho học sinh giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra các yếu đã cho, yếu tố phải tìm và quan hệ giữa chúng; hình thành một mô hình khái quát để giải quyết các bài toán và nhiệm vụ cùng loại; xác lập được tương quan giữa bài tập và kiến thức tương ứng.

2.2 Sự hình thành kĩ xảo:

* Kĩ xảo là gì?

Kỹ xảo là hành động tự động hóa nhờ luyện tập.

* Đặc điểm:

  • Kỹ xảo không bao giờ thực hiện đơn độc, tách rời khỏi hành động có ý thức phức tạp.
  • Mức độ tham gia của ý thức ít, thậm chí có khi cảm thấy không có sự tham gia của ý thức.
  • Không nhất thiết theo dõi bằng mắt, mà kiểm tra bằng cảm giác vận động.
  • Động tác thừa, phụ bị loại trừ, những động tác cần thiết ngày càng chính xác, nhanh và tiết kiệm, hành động tốn ít năng lượng và có kết quả.
  • Thống nhất giữa tính ổn định và tính linh hoạt, có nghĩa là kỹ xảo không nhất thiết gắn liền với một đối tượng và tình huống nhất định. Kỹ xảo có thể di chuyển dễ dàng tùy theo mục đích và tính chất chung của hành động.

* Điều kiện để hình thành kỹ xảo:

Củng cố là điều kiện để hình thành kỹ xảo. Nhưng củng cố không phải là việc làm cơ giới mà là quá trình điều chỉnh, rút kinh nghiệm, hợp lí hóa, tối ưu hóa.

* Để hình thành kỹ xảo cần phải đảm bảo các bước cơ bản sau đây:

Một: phải làm cho học sinh hiểu biện pháp hành động. Hiểu biện pháp hành động có thể thông qua các cách: cho học sinh quan sát hành động mẫu, kết quả mẫu, hướng dẫn chỉ vẽ...Khi hướng dẫn cần lưu ý giúp học sinh nắm được cách thức, lề lối, quy tắc, phương tiện để đạt kết quả. Điều quan trọng là giúp học sinh ý thức được các thủ thuật then chốt từng khâu, từng lúc và tùy hoàn cảnh.

Hai: Luyện tập.

- Khi luyện tập cần đảm bảo các điều kiện sau:

+ Cần làm cho học sinh biết chính xác mục đích của luyện tập.

+ Phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi.

Ba: Tự động hóa (cấu trúc hành động đã thay đổi về chất).

Bao quát hơn, bớt dần mục tiêu bộ phận.

Tiết kiệm: Bớt động tác thừa, gộp động tác, cử động chính được nổi bật.

Giảm dần sự tham gia của ý thức.

Tốc độ nhanh, chất lượng cao và duy trì kết quả điều đặn.

Là một khâu của hành động phức tạp.

3.Tâm lý học về giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học:

Các nhà đạo đức học xưa nay đều khẳng định đạo đức trước hết là ứng xử hay hành vi. Chúng ta thường xét đạo đức của một người không phải trên ý nghĩ (không biết được) hay trên lời nói (không tin được) mà trên việc làm (có thể quan sát, đánh giá được). Cần thấy rằng, việc thuyết giảng về đạo đức, tức là thông tin, chuyển giao những khái niệm, những kiến thức về đạo đức học là việc rất cần thiết. Khi đó, những lời thuyết giảng có sức thuyết phục cả về lý luận lẫn tình cảm và có tấm gương của người thuyết giảng làm cái bảo đảm vững chắc cho các lời thuyết giảng. Ngoài ra, muốn làm tốt việc giáo dục đạo đức học sinh, người giáo viên cần phải quan tâm, tìm hiểu các em. Trong quá trình dạy học, ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh, cần xem các em học hành ra sao? Kết quả thế nào? Còn phải hết sức quan tâm, tìm hiểu xem các em là người như thế nào? Khỏe hay yếu? Hiếu động hay ủ rũ? Nhút nhát hay lanh lợi?...

Từ những ứng xử bên ngoài, có thể biết được tính tình, thói quen, năng khiếu, mặc cảm... đó là nội tâm của đứa trẻ. Trên cơ sở quan sát nhận xét mà có biện pháp giáo dục phù hợp. Sự quan sát không chỉ thực hiện khi học sinh ngồi trong lớp nghe giảng, làm bài, phát biểu... vì học sinh chưa thể hiện hết những tính cách của mình khi phải ngồi yên một chỗ, được sự giám sát chặt chẽ của thầy cô, nên các em thường bộc lộ tính tình một cách chân thật nhất lúc chơi: có em thì hòa mình với bạn, có em hay lủi thủi một mình, có em thì làm thủ lĩnh trong các trò chơi, có em chỉ biết làm theo các bạn khác... Vì vậy giáo viên chủ nhiệm cần phải có mặt ở sân chơi, để quan sát và qua đó hiểu rõ học sinh mình hơn. Khi có điều kiện thì cùng sinh hoạt với học sinh qua các hoạt động ngoại khóa, đó là cơ hội rất tốt gần gũi tạo nên tình cảm thân thiết để làm cơ sở giáo dục đạo đức.

Trong quá trình giáo dục, người giáo viên phải hết sức tránh việc nhận xét nặng lời đối với học sinh, như là: "Đồ thần kinh", "Lười biếng", "Hỗn láo", "Mất dạy", "Lỳ lợm"... mà hãy tìm hiểu cho kỹ nguyên nhân đã khiến cho học sinh có những lời nói, hành vi như vậy, nếu không sẽ có những hậu quả khó lường trước được, vì các em dễ bị mặc cảm, đi đến bỏ học. Khi tìm hiểu nguyên nhân bỏ học, có thể nghe các em trình bày những lý do như: "Cô bảo em là thằng ngốc không học được đâu", "Em không đóng đủ tiền vì nhà em nghèo, cô mắng em hoài, em xấu hổ không dám đi học nữa", "Em phải giúp bố mẹ, có khi đến lớp muộn, thầy bảo ở nhà luôn cho xong"... Ở nhà khốn khổ, đến trường bị trách mắng, các em còn biết nương dựa vào đâu? Trong khi đó bạn bè và môi trường xấu sẵn sàng mở rộng cửa đón nhận các em, thì khó mà tránh được cám dỗ, dễ dàng trở nên hư hỏng. Giáo viên cần biết rằng đe dọa, trừng phạt là một cách giáo dục không hiệu quả. Trong khi đó, thái độ động viên và tôn trọng của thầy cô lại khích lệ học sinh làm những việc tốt. Nếu những lời sỉ vả thường thúc đẩy đứa trẻ hiếu động bày ra những trò tồi tệ mới, thì lời khen lại khiến các em muốn cố gắng làm việc tốt để được khen nữa.

Nếu bị phạt nhiều quá, đứa trẻ sẽ không còn cảm thấy sự khác biệt giữa tốt và xấu; các em sẽ hành động "tốt" chỉ vì nó cố tránh bị phạt, chứ không phải vì nó tán thành những chuẩn mực cư xử mà thầy cô bắt phải theo. Sự đe dọa, trừng phạt thường chỉ ngăn không cho đứa trẻ hành động theo một cách nào đó, chứ không dạy nó làm được điều gì tốt đẹp. Giáo dục phải phù hợp trong hoàn cảnh cụ thể, từng con người cụ thể, từng công việc, từng loại tiết học... Có hiểu học sinh thì người giáo viên mới điều chỉnh được các biện pháp giáo dục của mình cho phù hợp với từng em. Một học sinh lớp một vốn viết chữ rất đẹp, nhưng khi tập viết tiếng "Mẹ" em lại viết rất xấu, dù cô giáo cầm tay hướng dẫn từng nét. Bị cô rầy, em buông bút khóc oà lên rồi đòi nghỉ học. Dò hỏi mãi, cô mới biết mình đã chạm vào nỗi đau của em: mẹ đã bỏ cha con em theo người khác!

Một em học sinh giỏi chỉ thích được thưởng một con búp bê, lý do là vì em mồ côi cha, mẹ phải sống với bà nội nên em cảm thấy cô đơn và hết sức cần người để làm bạn với mình. Thế mới biết, muốn đến được với trái tim các em, người giáo viên cũng cần có tình thương yêu thật sự, "hãy hiến dâng trái tim cho trẻ" và kết quả đạt được chính là phần thưởng tinh thần vô giá cho những người yêu nghề dạy học, vì "càng yêu người bao nhiêu thì càng yêu nghề bấy nhiêu".

Đối với học sinh tiểu học, người giáo viên là "thần tượng", là trí tuệ, là lý tưởng của các em. Trong khá nhiều trường hợp, điều thầy cô làm là chân lý, luôn luôn đúng. Học sinh tiểu học tin vào lời dặn dò, vào việc làm của giáo viên hơn cả những điều in trong sách, hơn cả những điều cha mẹ dặn dò, khuyên nhủ.