Top cầu thủ ghi bàn lịch sử copa america năm 2024
Kể từ năm 1993, giải đấu thường có 12 đội—tất cả 10 đội CONMEBOL và hai đội bổ sung từ các liên đoàn khác, các đội từ Bắc Mỹ và châu Á cũng thường xuyên được mời tham gia thi đấu. México tham gia mọi giải đấu từ năm 1993 đến 2016, với một đội bổ sung được rút ra từ CONCACAF, ngoại trừ năm 1999, khi đội AFC Nhật Bản điền vào danh sách 12 đội và năm 2019, có sự góp mặt của Nhật Bản và Qatar. Phiên bản 2016 của giải đấu, Copa América Centenario, có 16 đội, với sáu đội từ CONCACAF cùng với 10 đội từ CONMEBOL. Hai lần về nhì của México là thành tích cao nhất đối với một đội không thuộc CONMEBOL. Show
Tám trong số mười đội tuyển quốc gia CONMEBOL đã vô địch giải đấu ít nhất một lần trong 47 lần tổ chức kể từ khi sự kiện khai mạc vào năm 1916, chỉ có Ecuador và Venezuela là chưa vô địch. Argentina và Uruguay có nhiều chức vô địch nhất trong lịch sử giải đấu, với 15 cúp mỗi bên. Argentina, tổ chức lần đầu tiên vào năm 1916, đã tổ chức giải đấu nhiều lần nhất (chín lần). Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất không thuộc CONMEBOL tổ chức sự kiện này, đã tổ chức như vậy vào năm 2016. Trong ba lần (năm 1975, 1979 và 1983), giải đấu được tổ chức ở nhiều quốc gia Nam Mỹ. Trừ năm 1931 1933 1943 1951 1961 1965 1969 1971 1973 1981 2003 2013 2023 là không tổ chức copa America Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]Thời kỳ đầu[sửa | sửa mã nguồn]Đội bóng đá đầu tiên ở Nam Mỹ, Câu lạc bộ bóng đá và cricket Lima, được thành lập ở Peru vào năm 1859 và Hiệp hội bóng đá Argentina được thành lập vào năm 1893. Đến đầu thế kỷ 20, bóng đá ngày càng phổ biến và giải đấu quốc tế đầu tiên được tổ chức giữa các đội tuyển quốc gia của lục địa Nam Mỹ đã diễn ra vào năm 1910 khi Argentina tổ chức một sự kiện để kỷ niệm 100 năm của Cách mạng Tháng Năm. Chile và Uruguay đã tham gia, nhưng sự kiện này không được CONMEBOL công nhận là giải đấu Copa America chính thức. Tương tự như vậy, để kỷ niệm 100 năm độc lập, Argentina đã tổ chức một giải đấu từ ngày 2 đến 17 tháng 7 năm 1916 gồm Argentina, Chile, Uruguay và Brasil là những ĐTQG tham gia đầu tiên của giải đấu. Tên gọi của giải khi đó là Campeonato Sudamericano de Football, cũng là phiên bản đầu tiên của Copa América hiện nay. Uruguay vô địch giải đầu tiên này sau khi thắng chủ nhà Argentina trong trận đấu quyết định được tổ chức tại Câu lạc bộ đua xe Estadio ở Avellaneda. Nhận thấy sự thành công của giải đấu, một ủy viên của Hiệp hội bóng đá Uruguay, ông Héctor Rivadavia, đã đề xuất thành lập một liên minh các hiệp hội của Argentina, Brasil, Chile và Uruguay, và vào ngày 9 tháng 7, ngày độc lập ở Argentina, CONMEBOL đã được thành lập. Năm 1917, giải tiếp tục được tổ chức, lần này là ở Uruguay. Uruguay đã tiếp tục vô địch sau khi đánh bại Argentina 1–0 trong trận chung kết của giải đấu. Thành công của giải đấu trên đất Uruguay khiến CONMEBOL vui mừng. Sau khi dịch cúm xảy ra ở Rio de Janeiro, CONMEBOL đã phải hủy bỏ giải đấu năm 1918. Brasil đã tổ chức giải đấu năm 1919 và lần đầu tiên họ lên ngôi vô địch sau khi đánh bại đương kim vô địch Uruguay 1–0 trong trận đấu quyết định. Sang giải đấu năm 1920, Uruguay đã đòi lại ngôi vương. Ở giải đấu vào năm 1921, Paraguay đã tham gia lần đầu tiên sau khi LĐBĐ của họ gia nhập CONMEBOL. Argentina đã giành chức vô địch lần đầu tiên của họ ở giải đấu kỳ này nhờ các bàn thắng của Julio Libonatti. Trong những năm tiếp theo, Uruguay đã thống trị giải đấu, lúc đó, Copa America là giải bóng đá lớn nhất thế giới (khi Euro hay World Cup chưa ra đời). Sau khi Argentina thua trận chung kết tại Thế vận hội Mùa hè 1928 được tổ chức ở Amsterdam (Hà Lan), Argentina đã rửa được mối hận ở giải Copa America 1929 bằng việc đánh bại Uruguay trong trận đấu cuối cùng. Trong giai đoạn này, Bolivia và Peru đã lần đầu tiên tham dự giải đấu năm 1926 và 1927. Sự gián đoạn[sửa | sửa mã nguồn]Sau kỳ World Cup đầu tiên được tổ chức tại Uruguay vào năm 1930, sự thù hằn giữa hai nền bóng đá Uruguay và Argentina đã khiến Copa America bị gián đoạn trong một số năm. Đến năm 1935, giải đấu mới có thể được phục hồi. Peru đã trở thành quốc gia đăng cai giải đấu vào năm 1939 và lần đầu tiên họ giành chức vô địch, Ecuador đã tham dự lần đầu tiên ở giải đấu năm đó. Năm 1941, Chile đã tổ chức giải để kỷ niệm 400 năm thành lập thành phố Santiago, nơi sân vận động Estád Nacional mới được xây dựng đã được mở rộng từ 30.000 đến 70.000 khán giả. Bất chấp sự đầu tư lớn, Chile đã bị Argentina đánh bại trong trận chung kết. Uruguay đã tổ chức và giành chiến thắng giải đấu năm 1942. Chile cũng tổ chức giải một lần nữa vào năm 1945 và Argentina đã một lần nữa giành chiến thắng trên đất Chile. Giai đoạn sau đó, giải đấu bước vào một thời kỳ bị gián đoạn. Giải đã không được công nhận là chính thức ở nhiều kỳ được tổ chức ở thời điểm đó và chỉ được CONMEBOL coi là hợp lệ sau này. Ví dụ, Argentina đã là đội đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) giành được 3 chức vô địch liên tiếp vào các năm 1945, 1946 và 1947. Sau 3 giải đấu thường niên đó, giải đã được tổ chức 2 năm 1 lần, rồi 3 năm 1 lần và 4 năm 1 lần vào thời gian sau đó. Thậm chí giải đấu còn được tổ chức tới 2 lần vào năm 1959, một ở Argentina và một ở Ecuador. Trong thời gian này, một số đội tuyển quốc gia đã thờ ơ với giải đấu. Một số không tham gia, một số thì gửi đội trẻ đến dự; giải đấu năm 1959 được tổ chức tại Ecuador, Brasil thậm chí đã gây sốc hơn khi gọi các cầu thủ từ một CLB đến từ bang Pernambuco vào ĐTQG để dự giải. Lần đầu tiên, Bolivia giành chức vô địch Copa America khi họ đăng cai vào năm 1963. Giải đấu năm 1967, Venezuela lần đầu tiên tham dự. Việc thành lập Copa Libertadores vào năm 1959 cũng ảnh hưởng đến số lượng khán giả tới xem. Sau 8 năm vắng bóng không được tổ chức vì nhiều lý do, giải đã bắt đầu lại vào năm 1975 và chính thức được gọi tên là Copa América. Giải đấu không có địa điểm tổ chức cố định và tất cả các trận đấu được diễn ra trong suốt cả năm ở mỗi quốc gia. Cả 9 đội tuyển quốc gia tham gia vòng bảng, nhà đương kim vô địch Uruguay được đặc cách vào bán kết. Giải đấu được tổ chức 4 năm một lần cho đến năm 1987. Sự thay đổi[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1986, CONMEBOL quyết định luân phiên một quốc gia thành viên đăng cai giải đấu theo bảng chữ cái ABC. Từ năm 1987 đến năm 2001, giải này được tổ chức 2 năm một lần. Thể thức giải với vòng bảng có 9 đội chia làm 3 bảng, đội đương kim vô địch được đặc cách vào bán kết. Sự đổi mới này đã giúp giải đấu bắt đầu nhận được sự phủ sóng truyền hình ở châu Âu và Bắc Mỹ. Copa América 1987 được tổ chức tại Argentina sau 28 năm. Mặc dù đã vô địch FIFA World Cup 1986, lại được chơi trên sân nhà và có huyền thoại Diego Maradona dẫn dắt, nhưng Argentina chỉ giành hạng tư sau khi bị đánh bại bởi đương kim vô địch Uruguay 0–1 trong trận bán kết. Uruguay đã đánh bại Chile trong trận chung kết để đăng quang ngôi vô địch, đáng chú ý Chile đã thắng sốc Brasil 4–0 ở vòng bảng. Brasil đã có danh hiệu quốc tế chính thức đầu tiên kể từ FIFA World Cup 1970 khi họ giành được cúp vô địch Copa América năm 1989 được tổ chức trên sân nhà. Đến lượt mình, Argentina cũng vô địch Copa América sau 32 năm dài chờ đợi vào năm 1991 tại Chile, nhờ một đội hình mạnh mẽ với cầu thủ vĩ đại Gabriel Batistuta. Giải đấu Copa América năm 1993 tại Ecuador được nâng lên 12 đội với 10 đội Nam Mỹ và 2 đội đến từ Bắc Mỹ là Mexico và Hoa Kỳ. Uruguay đã vô địch giải năm 1995 với tư cách là chủ nhà, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng của bóng đá Uruguay. Với việc thực hiện nước đăng cai luân phiên theo bảng chữ cái ABC, Colombia, Paraguay và Venezuela đã được tổ chức giải đấu lần đầu tiên. Brasil đã giành 4 chức vô địch trong 5 kỳ được tổ chức sau đó từ năm 1997 đến năm 2007. Lần đầu tiên, là vào năm 1997, Brasil đã giành cúp sau khi đánh bại quốc gia chủ nhà Bolivia với 3 bàn thắng của Leonardo, Denílson và Ronaldo tại sân vận động ở Verde – nơi có sân vận động bóng đá cao nhất thế giới so với mực nước biển. Brasil đã bảo vệ thành công danh hiệu này vào năm 1999 sau khi đánh bại Uruguay 3–0 tại Asuncion, Paraguay. Tuy nhiên, Copa América năm 2001 đã chứng kiến một trong những bất ngờ lớn nhất của giải này khi Honduras (khách mời từ Bắc Mỹ) đã loại Brasil ở tứ kết. Colombia, quốc gia chủ nhà, đã lần đầu tiên giành cúp. Từ năm 2001 đến 2007, giải đấu được tổ chức 3 năm một lần và từ năm 2007 trở đi quay lại với chu kì 4 năm 1 lần. Sau màn trình diễn đáng xấu hổ vào năm 2001, Brasil đã tái giành cúp ở giải vô địch Nam Mỹ năm 2004 được tổ chức tại Peru khi đánh bại Argentina trên chấm phạt đền sau khi hòa 2–2 trong 90 phút chính thức do công của Luisao và ngôi sao của giải – Adriano. Ba năm sau, hai đội gặp lại nhau trong trận chung kết, lần này là ở Venezuela. Một lần nữa, Brasil lại giành chiến thắng sau khi đè bẹp Argentina 3–0 với ngôi sao của giải – Júlio Baptista. Argentina đã tổ chức giải năm 2011 và để thua dưới tay Uruguay ở tứ kết bằng loạt sút luân lưu. Uruguay đã đánh bại Peru 2–0 trong trận bán kết để lọt vào trận chung kết và hủy diệt Paraguay 3–0, qua đó giành được chiếc cúp trên đất Argentina lần thứ 3 và lần thứ 2 liên tiếp (khi được tổ chức ở Argentina). Đây là giải đấu lần thứ 43, là lần đầu tiên cả Argentina và Brasil không lọt vào bán kết của một giải đấu mà cả hai cùng tham gia. Giải đấu năm 2011 cũng ghi nhận một kỷ lục trong lịch sử bóng đá khi Paraguay là ĐTQG không giành được bất kỳ một chiến thắng nào, một bàn thắng nào (toàn hòa 0–0 ở 3 trận vòng bảng, thắng luân lưu ở tứ kết và bán kết sau khi hòa Brasil và Venezuela 0–0) để đi tới trận chung kết của giải, nơi họ tiếp tục không ghi bàn nhưng thua Uruguay 0–3. Copa America 2015 đã được tổ chức tại Chile, giải lần đầu tiên áp dụng công nghệ vạch vôi điện tử Goal-line. Giải đấu này lẽ ra sẽ được tổ chức ở Brasil bởi quy luật đăng cai luân phiên theo vần ABC, nhưng trong bối cảnh Brasil bận tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 và Thế vận hội mùa hè 2016, Chile đã thế chỗ, đổi lại Brasil thay Chile đăng cai giải vào năm 2019. Chile đã giành chức vô địch lần đầu tiên trong lịch sử sau khi đánh bại Argentina của Lionel Messi trên chấm luân lưu. Năm 2016, để kỷ niệm 100 năm của giải, giải được gán tên Copa América Centenario và được tổ chức tại Hoa Kỳ. Giải đấu này là lần đầu tiên được tổ chức bên ngoài Nam Mỹ và được mở rộng lên đến 16 đội (10 từ CONMEBOL và 6 từ CONCACAF) và là lần thứ hai áp dụng công nghệ Goal-line. Trong giải đấu, báo chí có thông tin cho rằng CONMEBOL và CONCACAF đang đàm phán để sáp nhập Copa América với Gold Cup để hình thành giải vô địch toàn châu Mỹ, dự định sẽ được tổ chức 2 năm một lần, với Hoa Kỳ là quốc gia tổ chức các giải đấu thường xuyên. Tuy nhiên, Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ Sunil Gulati gọi tin đồn này là không chính xác và nói rằng sẽ không có cuộc thảo luận nào như vậy xảy ra. Chile tiếp tục gieo sầu cho người Argentina khi đánh bại họ trên chấm luân lưu để bảo vệ ngai vàng. Năm 2019, giải được tổ chức ở Brasil theo chu kỳ 4 năm 1 lần sau lần trước vào năm 2015 ở Chile, lần thứ ba áp dụng Goal-line và lần đầu tiên áp dụng trợ lý video hỗ trợ trọng tài (VAR) cùng nhiều thay đổi của luật bóng đá do IFAB ban hành. Brasil đã giành chức vô địch sau khi đánh bại Peru (đội đã bất ngờ loại đương kim vô địch Chile ở bán kết) với tỉ số 3–1 nhờ sự tỏa sáng của ngôi sao trẻ Everton Soares. Trong phiên họp năm 2019, CONMEBOL đã quyết định, giải sẽ quay lại năm chẵn và được tổ chức 4 năm một lần để cạnh tranh với UEFA Euro 2020, điều đó có nghĩa là Copa America sẽ được tổ chức vào năm 2020 do Argentina và Colombia đồng đăng cai. Sau đó 4 năm sau, giải năm 2024 được tổ chức ở Ecuador (do Bolivia tiếp tục rút lui không đăng cai theo nghĩa vụ). Song tình hình đại dịch COVID-19 dai dẳng khiến cho Copa America (cũng như Euro) không thể diễn ra trong năm 2020. Cả Argentina và Colombia sau đó cũng bị tước quyền đăng cai do nơi thì dịch bệnh diễn biến phức tạp, nơi thì lại gặp những bất ổn về chính trị. Brasil một lần nữa đứng ra đăng cai giải đấu lần này thông qua sự lựa chọn của CONMEBOL, mặc cho một số cầu thủ của Brasil, Argentina, Uruguay ra sức phản đối việc tổ chức này. Tại giải đấu này, Argentina giành chức vô địch vô địch lần thứ 15 sau khi đánh bại đại kình địch Brasil với tỉ số 1–0 nhờ sự tỏa sáng của các ngôi sao Lionel Messi, Ángel Di María, Sergio Agüero. Theo quy định luân phiên ABC, dễ dàng tìm ra nước chủ nhà cho các năm 2028, 2032, 2036. Tuy nhiên, trong tương lai có thể sẽ có sự thay đổi. Chủ nhà[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1984, CONMEBOL đã thông qua chính sách luân phiên quyền tổ chức Copa América trong số 10 quốc gia thành viên theo bảng chữ cái ABC (nghĩa là Argentina đăng cai xong sẽ đến lượt Bolivia, Colombia,... cho đến Venezuela đăng cai các giải đấu sau đó). Vòng đăng cai đầu tiên đã được hoàn thành sau kỳ Copa América 2007 diễn ra ở Venezuela. Vòng đăng cai thứ hai bắt đầu vào năm 2011, với các nước chủ nhà luân chuyển theo thứ tự bảng chữ cái, bắt đầu với Argentina. Chile, Mexico và Hoa Kỳ bày tỏ sự quan tâm đến việc tổ chức giải đấu tiếp theo, nhưng Ủy ban điều hành CONMEBOL quyết định tiếp tục thực hiện vòng quay, ưu tiên tổ chức cho các nước thành viên của mình; mỗi nước sẽ xác nhận xem họ có khả năng tổ chức hay không, nếu không, nước tiếp sau trong bảng chữ cái được đăng cai thay. Argentina đã xác nhận vào ngày 24 tháng 11 năm 2008, thông qua đại diện của LĐBĐ Argentina, rằng họ sẽ tổ chức Copa América 2011. Copa América 2015 dự kiến sẽ được tổ chức tại Bolivia theo thứ tự xoay vòng bảng chữ cái, nhưng Bolivia vì điều kiện kinh tế đã xin rút lui và Brasil được giao "nghĩa vụ" đăng cai. Tuy nhiên, việc tổ chức FIFA World Cup 2014 và Thế vận hội Mùa hè 2016 tại Brasil dẫn đến sự việc được xem xét lại vì họ rất bận. Mặc dù Chủ tịch CONMEBOL Nicolas Leoz đã đề xuất tổ chức giải đấu ở Mexico (thành viên của liên đoàn CONCACAF), song Brasil và Chile đã thảo luận về khả năng hoán đổi quyền đăng cai giải đấu 2015 và 2019, và đã được CBF quyết định và xác nhận vào tháng 2 năm 2011 rằng Copa América 2015 sẽ vẫn ở Brasil. Tuy nhiên, vào tháng 3 năm 2012, Chile đã thông báo rằng họ sẽ tổ chức Copa América 2015, sau khi Chủ tịch của CBF, ông Ricardo Teixeira từ chức và CBF đồng ý hoán đổi với Chile. Việc hoán đổi đã được chính thức công bố vào tháng 5 năm 2012. Phiên bản kỷ niệm 100 năm của giải đấu, Copa América Centenario, diễn ra vào tháng 6 năm 2016 và được tổ chức tại Hoa Kỳ. Copa América Centenario đánh dấu lần đầu tiên giải đấu được tổ chức bởi một quốc gia không thuộc CONMEBOL. Mỗi kỳ Copa América từ năm 1987 luôn có linh vật và logo riêng, bao gồm cả bài hát chính thức và các sự kiện bên lề. Gardelito, linh vật cho giải năm 1987, là linh vật Copa América đầu tiên. Bảng thống kê chủ nhà Copa America Chủ nhà Năm đăng cai Argentina9 (1916, 1921, 1925, 1929, 1937, 1946, 1959, 1987, 2011) Uruguay7 (1917, 1923, 1924, 1942, 1956, 1967, 1995) Chile7 (1920, 1926, 1941, 1945, 1955, 1991, 2015) Peru6 (1927, 1935, 1939, 1953, 1957, 2004) Brasil5 (1919, 1922, 1949, 1989, 2019, 2021) Ecuador4 (1947, 1959, 1993, 2024) Không có quốc gia đăng cai [F] 3 (1975, 1979, 1983) Bolivia2 (1963, 1997) Hoa Kỳ C 2 (2016, 2024) Colombia1 (2001) Paraguay1 (1999) Venezuela1 (2007) C = chủ nhà không thuộc CONMEBOLThể thức[sửa | sửa mã nguồn]Giải đấu trước đây được gọi là Campeonato Sudamericano de Futbol (South American Championship of Football – Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ). South American Championship of Football là tên tiếng Anh chính thức. Tên hiện tại – Copa America đã được sử dụng từ năm 1975. Trong giai đoạn 1975–1983, giải không có quốc gia đăng cai và được tổ chức theo kiểu sân nhà và sân khách. Giải đấu hiện tại có 12 đội tuyển quốc gia thi đấu hơn một tháng tại quốc gia chủ nhà. Có hai giai đoạn: vòng bảng và vòng loại trực tiếp. Ở vòng bảng, các đội thi đấu vòng tròn với 3 bảng, mỗi bảng 4 đội. Ba đội được chọn là hạt giống, bao gồm cả đội chủ nhà, với các đội hạt giống khác được chọn bằng cách sử dụng Bảng xếp hạng (BXH) FIFA. Các nhóm khác được dựa trên BXH FIFA và các đội được bốc thăm ngẫu nhiên. Mỗi bảng, các đội được lên lịch chơi ba trận đấu với các đội khác trong cùng một bảng. Vòng cuối của vòng bảng, 2 trận đấu trong bảng không được đá cùng giờ – một điều lạ, khác với nhiều giải đấu trên thế giới. Hai đội đứng đầu từ mỗi bảng tiến vào vòng tứ kết cùng hai đội hạng ba có thành tích tốt nhất. Điểm được sử dụng để xếp hạng các đội trong một bảng. Bắt đầu từ năm 1995, 3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho trận hòa và 0 điểm nào cho trận thua (trước đó, đội thắng nhận được 2 điểm). Thứ hạng của mỗi đội trong mỗi bảng được xác định như sau:
Nếu hai hoặc nhiều đội bằng nhau ở ba tiêu chí trên, thứ hạng của họ được xác định như sau:
Vòng đấu loại trực tiếp, các đội chỉ thi đấu mỗi trận một lượt duy nhất, với các loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu trận đấu hòa trong 90 phút và 30 phút hiệp phụ. Khách mời[sửa | sửa mã nguồn]Do số lượng thành viên của CONMEBOL ít, chỉ có 10 đội, các quốc gia từ các châu lục khác thường được mời tham gia để tạo nên 12 đội cho dễ chia bảng. Kể từ năm 1993, hai đội từ các khu vực khác, thường là từ CONCACAF gần gũi về mặt địa lý và văn hóa, cũng đã được mời. Trong lịch sử, 9 ĐTQG khác nhau đã được mời tham gia giải là:
*: chủ nhà Mexico đã tham dự đầy đủ các kỳ từ năm 1993 đến 2016, Hoa Kỳ đã được mời ở mọi giải đấu từ năm 1997 đến 2007 nhưng cũng thường xuyên từ chối lời mời do xung đột lịch trình với Major League Soccer – giải nhà nghề Mỹ. Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 10 năm 2006, Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ đã chấp nhận lời mời tham gia giải đấu năm 2007, chấm dứt 12 năm vắng bóng. Tại Copa América 2001, Canada là ĐTQG được mời, nhưng đã rút lui ngay trước khi bắt đầu giải đấu vì những lo ngại về an ninh. Tại Copa América 2011, Nhật Bản tiếp tục rút lui, do khó khăn trong việc gọi các cầu thủ thi đấu ở châu Âu lên ĐTQG và nhất là trận động đất và sóng thần Tōhoku khiến họ không còn tâm trí để đá bóng. ĐTQG Tây Ban Nha được mời tham dự năm 2011, nhưng theo Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha, họ đã từ chối vì không muốn làm gián đoạn ngày nghỉ của các cầu thủ Tây Ban Nha. Tại Copa América 2015, Nhật Bản đã từ chối lời mời vì họ cũng không thể gọi các cầu thủ đang thi đấu ở châu Âu lên tuyển. Trung Quốc sau đó cũng được mời thay những cũng phải rút lui do bận thi đấu Vòng loại World Cup 2018 khu vực châu Á. Cuối cùng, Jamaica đồng ý tham gia và gấp rút lên đường sang thi đấu. Úc và Qatar là 2 đội tuyển được mời tham dự Copa America 2021 nhưng sau đó phải bỏ cuộc do trùng với lịch thi đấu Vòng loại World Cup 2022 khu vực châu Á, vốn dĩ đã được dời sang năm 2021 do COVID-19. Thành tích của các đội khách mời[sửa | sửa mã nguồn]Đội 1993 1995 1997 1999 2001 2004 2007 2011 2015 2016 2019 Lần tham dự Costa Rica– – VB – TK TK – VB – VB – 5 Haiti– – – – – – – – – VB – 1 Honduras– – – – 3rd – – – – – – 1 Jamaica– – – – – – – – VB VB – 2 Nhật Bản– – – VB – – – – – – VB 2 México2nd TK 3rd 3rd 2nd TK 3rd VB VB TK – 10 Panama– – – – – – – – – VB – 1 Qatar– – – – – – – – – – VB 1 Hoa KỳVB 4th – – – – VB – – 4th – 4
Cúp vô địch[sửa | sửa mã nguồn]Chiếc cúp vô địch của Copa America.Chiếc cúp Copa América, được trao cho ĐTQG vô địch giải đấu, đã được trao tặng cho CONMEBOL bởi Bộ Ngoại giao Argentina vào năm 1910, khi Argentina tổ chức một giải để kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Năm. Giải khi đó (cũng có sự tham gia của Uruguay và Chile) được đặt tên là "Copa del Centenario" (Cúp trăm năm). Chiếc cúp Copa América hiện tại được mua vào năm 1916 từ "Casa Escasany", một cửa hàng bán đồ trang sức ở Buenos Aires, với giá 3.000 franc Thụy Sĩ. Chiếc cúp Copa América có trọng lượng 9 kg (20 lb), được làm bằng bạc nguyên chất cao 77 cm (30 inch), với đế bằng gỗ 3 cấp có chứa nhiều mảng. Các tấm mảng được khắc tên các đội tuyển vô địch trong lịch sử. Vào tháng 4 năm 2016, một chiếc cúp mới – được thiết kế dành riêng cho Copa América Centenario – đã được giới thiệu tại trụ sở Liên đoàn bóng đá Colombia ở Bogota để kỷ niệm 100 năm của giải đấu. Chiếc cúp được dựa trên hình dạng của chiếc cúp Copa América ban đầu, được thêm vào logo giải năm 2016. Nó cao 61 cm (24 inch) với trọng lượng 7,1 kg (16 lb), được mạ vàng nguyên chất 24 cara. Các logo của CONMEBOL và CONCACAF cũng được khắc trên thân của nó. Chiếc cúp Copa América Centenario 2016 được thiết kế bởi Epico Studios ở Hoa Kỳ và được sản xuất bởi London Work Workshop của Thomas Lyte ở Anh. Chile đã vô địch và được giữ cúp bằng vàng này vĩnh viễn. Ngoài chiếc cúp chính, "Copa Bolivia" (một chiếc cúp được làm bằng bạc nguyên khối) đã được trao cho á quân của giải kể từ năm 1997 – một điều được coi là độc nhất ở các giải đấu bóng đá của thế giới khi mà á quân cũng được cúp. Chiếc cúp được đặt theo tên quốc gia tổ chức Copa América năm 1997, với một lá cờ Bolivian nhỏ được gắn ở một trong các mặt của nó. Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]Năm Chủ nhà Xếp hạng chung cuộc Vô địch Á quân Hạng ba Hạng tư 1916 Chi tiết () Argentina Uruguay Argentina Brasil Chile 1917 Chi tiết Uruguay Uruguay Argentina Brasil Chile 1919 Chi tiết Brasil Brasil Uruguay Argentina Chile 1920 Chi tiết Chile Uruguay Argentina Brasil Chile 1921 Chi tiết Argentina Argentina Brasil Uruguay Paraguay 1922 Chi tiết Brasil Brasil Paraguay Uruguay Argentina 1923 Chi tiết Uruguay Uruguay Argentina Paraguay Brasil 1924 Chi tiết Uruguay Uruguay Argentina Paraguay Chile 1925 Chi tiết () Argentina Argentina Brasil Paraguay n/a 1926 Chi tiết Chile Uruguay Argentina Chile Paraguay 1927 Chi tiết Peru Argentina Uruguay Peru Bolivia 1929 Chi tiết Argentina Argentina Paraguay Uruguay Peru 1935 Chi tiết () Peru Uruguay Argentina Peru Chile 1937 Chi tiết Argentina Argentina Brasil Uruguay Paraguay 1939 Chi tiết Peru Peru Uruguay Paraguay Chile 1941 Chi tiết () Chile Argentina Uruguay Chile Peru 1942 Chi tiết Uruguay Uruguay Argentina Brasil Paraguay 1945 Chi tiết () Chile Argentina Brasil Chile Uruguay 1946 Chi tiết () Argentina Argentina Brasil Paraguay Uruguay 1947 Chi tiết Ecuador Argentina Paraguay Uruguay Chile 1949 Chi tiết Brasil Brasil Paraguay Peru Bolivia 1953 Chi tiết Peru Paraguay Brasil Uruguay Chile 1955 Chi tiết Chile Argentina Chile Peru Uruguay 1956 Chi tiết () Uruguay Uruguay Chile Argentina Brasil 1957 Chi tiết Peru Argentina Brasil Uruguay Peru 1959 Chi tiết Argentina Argentina Brasil Paraguay Peru 1959 Chi tiết () Ecuador Uruguay Argentina Brasil Ecuador 1963 Chi tiết Bolivia Bolivia Paraguay Argentina Brasil 1967 Chi tiết Uruguay Uruguay Argentina Chile ParaguayCúp bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]Năm Nước chủ nhà Chung kết Tranh hạng ba Vô địch Tỷ số Á quân Hạng 3 Tỷ số Hạng 4 1975 Chi tiết Nhiều quốc gia Peru 0–1 / 2–0 Play–off 1–0 Colombia Brasil Uruguayn/a() 1979 Chi tiết Nhiều quốc gia Paraguay 3–0 / 0–1 Play–off 0–0 (h.p.) Chile Brasil Perun/a() 1983 Chi tiết Nhiều quốc gia Uruguay 2–0 / 1–1 Brasil Paraguay Perun/a() 1987 Chi tiết Argentina Uruguay 1–0 Chile Colombia 2–1 Argentina 1989 Chi tiết Brasil Brasil 1–0 Uruguay Argentina 0–0 Paraguay 1991 Chi tiết Chile Argentina 3–2 Brasil Chile 1–1 Colombia 1993 Chi tiết Ecuador Argentina 2–1 México Colombia 1–0 Ecuador 1995 Chi tiết Uruguay Uruguay 1–1 (h.p.) (5–3) (11m) Brasil Colombia 4–1 Hoa Kỳ 1997 Chi tiết Bolivia Brasil 3–1 Bolivia México 1–0 Peru 1999 Chi tiết Paraguay Brasil 3–0 Uruguay México 2–1 Chile 2001 Chi tiết Colombia Colombia 1–0 México Honduras 2–2 (5–4) (11m) Uruguay 2004 Chi tiết Peru Brasil 2–2 (h.p.) (4–2) (11m) Argentina Uruguay 2–1 Colombia 2007 Chi tiết Venezuela Brasil 3–0 Argentina México 3–1 Uruguay 2011 Chi tiết Argentina Uruguay 3–0 Paraguay Peru 4–1 Venezuela 2015 Chi tiết Chile Chile 0–0 (h.p.) (4–1) (11m) Argentina Peru 2–0 Paraguay 2016 Chi tiết Hoa Kỳ Chile 0–0 (h.p.) (4–2) (11m) Argentina Colombia 1–0 Hoa Kỳ 2019 Chi tiết Brasil Brasil 3–1 Peru Argentina 2–1 Chile 2021 Chi tiết Argentina 1–0 Brasil Colombia 3–2 Peru 2024 Chi tiết Hoa Kỳ(Các đội mời được in nghiêng) 1 Chỉ có 3 đội tham dự. 2 Đồng giải ba (không thi đấu). Các đội từng đạt đến hạng tư[sửa | sửa mã nguồn]Đội tuyển Vô địch Á quân Hạng ba Hạng tư Argentina15 (1921, 1925, 1927, 1929, 1937, 1941, 1945, 1946, 1947, 1955, 1957, 1959 (Argentina), 1991, 1993, 2021) 14 (1916, 1917, 1920, 1923, 1924, 1926, 1935, 1942, 1959 (Ecuador), 1967, 2004, 2007, 2015, 2016) 5 (1919, 1956, 1963, 1989, 2019) 2 (1922, 1987) Uruguay15 (1916, 1917, 1920, 1923, 1924, 1926, 1935, 1942, 1956, 1959 (Ecuador), 1967, 1983, 1987, 1995, 2011) 6 (1919, 1927, 1939, 1941, 1989, 1999) 9 (1921, 1922, 1929, 1937, 1947, 1953, 1957, 1975, 2004) 5 (1945, 1946, 1955, 2001, 2007) Brasil9 (1919, 1922, 1949, 1989, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019) 12 (1921, 1925, 1937, 1945, 1946, 1953, 1957, 1959 (Argentina), 1983, 1991, 1995, 2021) 7 (1916, 1917, 1920, 1942, 1959 (Ecuador), 1975, 1979) 3 (1923, 1956, 1963) Paraguay2 (1953, 1979) 6 (1922, 1929, 1947, 1949, 1963, 2011) 7 (1923, 1924, 1925, 1939, 1946, 1959 (Argentina), 1983) 6 (1921, 1926, 1937, 1942, 1967, 1989, 2015) Chile2 (2015*, 2016) 4 (1955, 1956, 1979, 1987) 5 (1926, 1941, 1945, 1967, 1991) 11 (1916, 1917, 1919, 1920, 1924, 1935, 1939, 1947, 1953, 1999, 2019) Peru2 (1939, 1975) 1 (2019) 8 (1927, 1935, 1949, 1955, 1979, 1983, 2011, 2015) 7 (1929, 1941, 1957, 1959 (Argentina), 1997, 2021) Colombia1 (2001) 1 (1975) 5 (1987, 1993, 1995, 2016, 2021) 2 (1991, 2004) Bolivia1 (1963) 1 (1997) — 2 (1927, 1949) México^ — 2 (1993, 2001) 3 (1997, 1999, 2007) — Honduras^ — — 1 (2001) — Ecuador— — — 2 (1959 (Ecuador), 1993) Hoa Kỳ^ — — — 2 (1995, 2016) Venezuela— — — 1 (2011)*=Chủ nhà ^=Khách mời Kết quả của các nước chủ nhà[sửa | sửa mã nguồn]Năm Nước đăng cai Chung kết 1916 ArgentinaÁ quân 1917 UruguayVô địch 1919 BrasilVô địch 1920 ChileHạng tư 1921 ArgentinaVô địch 1922 BrasilVô địch 1923 UruguayVô địch 1924 UruguayVô địch 1925 ArgentinaVô địch 1926 ChileHạng ba 1927 PeruHạng ba 1929 ArgentinaVô địch 1935 PeruHạng ba 1937 ArgentinaVô địch 1939 PeruVô địch 1941 ChileHạng ba 1942 UruguayVô địch 1945 ChileHạng ba 1946 ArgentinaVô địch 1947 EcuadorHạng 6 1949 BrasilVô địch 1953 PeruHạng 5 1955 ChileÁ quân 1956 UruguayVô địch 1957 PeruHạng tư 1959 ArgentinaVô địch 1959 EcuadorHạng tư 1963 BoliviaVô địch 1967 UruguayVô địch 1987 ArgentinaVô địch 1989 BrasilVô địch 1991 ChileHạng ba 1993 EcuadorHạng 4 1995 UruguayVô địch 1997 BoliviaÁ quân 1999 ParaguayTứ kết 2001 ColombiaVô địch 2004 PeruTứ kết 2007 VenezuelaTứ kết 2011 ArgentinaTứ kết 2015 ChileVô địch 2016 Hoa KỳHạng tư 2019 BrasilVô địch 2021 BrasilÁ quân 2024 Hoa KỳCXĐKết quả của các nhà đương kim vô địch[sửa | sửa mã nguồn]Năm Đương kim vô địch Chung kết 1917 UruguayVô địch 1919 UruguayÁ quân 1920 BrasilHạng ba 1921 UruguayHạng ba 1922 ArgentinaHạng tư 1923 BrasilHạng tư 1924 BrasilVô địch 1925 BrasilVô địch 1926 ArgentinaÁ quân 1927 UruguayÁ quân 1929 ArgentinaVô địch 1935 ArgentinaÁ quân 1937 UruguayVô địch 1939 ArgentinaBỏ cuộc 1941 PeruHạng tư 1942 ArgentinaÁ quân 1945 UruguayHạng tư 1946 ArgentinaVô địch 1947 ArgentinaVô địch 1949 ArgentinaBỏ cuộc 1953 BrasilÁ quân 1955 ParaguayHạng 5 1956 ArgentinaHạng ba 1957 UruguayHạng ba 1959 ArgentinaVô địch 1959 ArgentinaVô địch 1963 UruguayBỏ cuộc 1967 BoliviaHạng 6 1975 UruguayHạng 4 1979 PeruHạng 4 1983 ParaguayHạng ba 1987 UruguayVô địch 1989 UruguayÁ quân 1991 BrasilÁ quân 1993 ArgentinaVô địch 1995 ArgentinaTứ kết 1997 UruguayVòng bảng 1999 BrasilVô địch 2001 BrasilTứ kết 2004 ColombiaHạng 4 2007 BrasilVô địch 2011 BrasilTứ kết 2015 UruguayTứ kết 2016 ChileVô địch 2019 ChileHạng 4 2021 BrasilÁ quân 2024 ArgentinaCXĐGiải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]Cầu thủ xuất sắc nhất giải[sửa | sửa mã nguồn]Năm Cầu thủ 1916 Isabelino Gradín 1917 Héctor Scarone 1919 Arthur Friedenreich 1920 José Piendibene 1921 Américo Tesoriere 1922 Agostinho Fortes Filho 1923 José Nasazzi 1924 Pedro Petrone 1925 Manuel Seoane 1926 José Leandro Andrade 1927 Manuel Seoane 1929 Manuel Ferreira 1935 José Nasazzi 1937 Vicente de la Mata 1939 Teodoro Fernández 1941 Sergio LivinVBtone 1942 Obdulio Varela 1945 Domingos da Guia 1946 Adolfo Pedernera 1947 José Manuel Moreno 1949 Ademir 1953 Heriberto Herrera 1955 Enrique Hormazábal 1956 Óscar Míguez 1957 Omar Sívori 1959 Pelé 1959 Alcides Silveira 1963 Ramiro Blacut 1967 Pedro Rocha 1975 Teófilo Cubillas 1979 Carlos Caszely 1983 Enzo Francescoli 1987 Carlos Valderrama 1989 Rubén Sosa 1991 Leonardo Rodríguez 1993 Sergio Goycochea 1995 Enzo Francescoli 1997 Ronaldo 1999 Rivaldo 2001 Amado Guevara 2004 Adriano 2007 Robinho 2011 Luis Suárez 2015 Lionel Messi 2016 Alexis Sánchez 2019 Daniel Alves 2021 Lionel Messi NeymarVua phá lưới[sửa | sửa mã nguồn]Năm Cầu thủ Số bàn thắng 1916 Isabelino Gradín 3 1917 Ángel Romano 4 1919 Arthur Friedenreich 4 Neco 1920 José Pérez 3 Ángel Romano 1921 Julio Libonatti 3 1922 Julio Francia 4 1923 Vicente Aguirre 3 Pedro Petrone 1924 Pedro Petrone 4 1925 Manuel Seoane 6 1926 David Arellano 7 1927 Alfredo Carricaberry 3 Segundo Luna Roberto Figueroa Pedro Petrone Héctor Scarone 1929 Aurelio González 5 1935 Herminio Masantonio 4 1937 Raúl Toro Julio 7 1939 Teodoro Fernández 7 1941 Juan Marvezzi 5 1942 Herminio Masantonio 7 José Manuel Moreno 1945 Norberto Méndez 6 Heleno de Freitas 1946 José María Medina 7 1947 Nicolás Falero 8 1949 Jair da Rosa Pinto 9 1953 Francisco Molina 7 1955 Rodolfo Micheli 8 1956 Enrique Hormazábal 4 1957 Humberto Maschio 9 Javier Ambrois 1959 Pelé 8 1959 José Sanfilippo 6 1963 Carlos Alberto Raffo 6 1967 Luis Artime 5 1975 Leopoldo Luque 4 Ernesto Díaz 1979 Jorge Peredo 4 Eugenio Morel 1983 Jorge Burruchaga 3 Roberto Dinamite Carlos Aguilera 1987 Arnoldo Iguarán 4 1989 Bebeto 6 1991 Gabriel Batistuta 6 1993 José Luis Dolgetta 4 1995 Gabriel Batistuta 4 Luis García 1997 Luis Hernández 6 1999 Rivaldo 5 Ronaldo 2001 Víctor Aristizábal 6 2004 Adriano 7 2007 Robinho 6 2011 Paolo Guerrero 5 2015 Eduardo Vargas 4 Paolo Guerrero 2016 Eduardo Vargas 6 2019 Everton Soares 3 Paolo Guerrero 2021 Lionel Messi 4 Luis DíazThống kê theo số trận thắng[sửa | sửa mã nguồn]Tính đến mùa giải 2021. Chú thích Đội vô địch Copa América Đội Điểm Số trận Thắng Hòa Thua Bàn thắng Bàn thua Hiệu số 1 Argentina423 202 127 42 33 474 182 +292 2 Uruguay374 205 112 38 55 410 221 +189 3 Brasil362 191 108 38 45 430 204 +226 4 Paraguay253 177 64 43 70 264 303 −39 5 Chile234 188 67 33 88 291 316 −25 6 Peru213 161 58 39 64 230 255 −25 7 Colombia172 124 49 25 50 142 191 −49 8 Bolivia86 119 20 26 73 107 298 −191 9 Ecuador74 126 16 26 84 134 327 −193 10 México70 48 19 13 16 66 62 +4 11 Venezuela41 70 8 17 45 49 177 −128 12 Costa Rica18 17 5 3 9 17 31 –14 13 Hoa Kỳ17 18 5 2 11 18 29 –11 14 Honduras10 6 3 1 2 7 5 +2 15 Panama3 3 1 0 2 4 10 –6 16 Nhật Bản3 6 0 3 3 6 15 –9 17 Qatar1 3 0 1 2 2 5 –3 18 Jamaica0 6 0 0 6 0 9 –9 19 Haiti0 3 0 0 3 1 12 –11Các huấn luyện viên vô địch[sửa | sửa mã nguồn]Năm Huấn luyện viên Vô địch 1916 Alfredo Foglino Uruguay1917 Ramón Platero Uruguay1919 Haroldo Domingues Brasil1920 Ernesto Fígoli Uruguay1921 Pedro Calomino Argentina1922 Laís Brasil1923 Leonardo De Lucca Uruguay1924 Ernesto Meliante Uruguay1925 Américo Tesoriere Argentina1926 Ernesto Fígoli Uruguay1927 José Lago Millón Argentina1929 Fransisco Olazar Argentina1935 Raúl V. Blanco Uruguay1937 Manuel Seoane Argentina1939 Jack Greenwell Peru1941 Guillermo Stábile Argentina1942 Pedro Cea Uruguay1945 Guillermo Stábile Argentina1946 Guillermo Stábile Argentina1947 Guillermo Stábile Argentina1949 Flávio Costa Brasil1953 Manuel Fleitas Solich Paraguay1955 Guillermo Stábile Argentina1956 Hugo Bagnulo Uruguay1957 Guillermo Stábile Argentina1959 Victorio Spinetto Argentina1959 Juan Carlos Corazzo Uruguay1963 Danilo Alvim Bolivia1967 Juan Carlos Corazzo Uruguay1975 Marcos Calderón Peru1979 Ranulfo Miranda Paraguay1983 Omar Borrás Uruguay1987 Roberto Fleitas Uruguay1989 Sebastião Lazaroni Brasil1991 Alfio Basile Argentina1993 Alfio Basile Argentina1995 Héctor Núñez Uruguay1997 Mário Zagallo Brasil1999 Vanderlei Luxemburgo Brasil2001 Francisco Maturana Colombia2004 Carlos Alberto Parreira Brasil2007 Dunga Brasil2011 Óscar Tabárez Uruguay2015 Jorge Sampaoli Chile2016 Juan Antonio Pizzi Chile2019 Tite Brasil2021 Lionel Scaloni ArgentinaKỷ lục[sửa | sửa mã nguồn]Theo đội tuyển[sửa | sửa mã nguồn]
Theo cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]
Kỷ lục khác[sửa | sửa mã nguồn]
Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]Mùa giải năm 2020 dự kiến diễn ra tại Argentina và Colombia, Tuy nhiên, tháng 5/2021, Colombia phải huỷ đăng cai vì vấn đề chính trị, sau đó Argentina cũng phải huỷ đăng cai vì vấn đề đại dịch COVID-19, sau đó quyền đăng cai mùa giải sẽ là Brasil. |