Nêu công dụng của dấu chấm lửng trong câu thơ đôi con diều sáo lộn nhào từng không

Văn Mẫu Lớp 9: Bài thơ ''Khi con tu hú'' của Tố Hữu thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

Nội dung chính Show

  • Văn Mẫu Lớp 9: Bài thơ ''Khi con tu hú'' của Tố Hữu thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
  • Đề bài: Bài thơ ''Khi con tu hú'' của Tố Hữu thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Theo đó, Hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn bài + 3 bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình.
  • Bài mẫu 1: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu
  • Bài mẫu 2: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu
  • Bài mẫu 2: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu
  • Từ khóa tìm kiếm google:
  • Video liên quan

  • Bài mẫu 1: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu
  • Bài mẫu 2: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu
  • Bài mẫu 2: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu

Back to top

Bài mẫu 1: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu

Dàn bài:

1. Mở bài:Giới thiệu về Tố Hữu và nhan đề bài thơ

2. Thân bài:

  • Bức tranh phong cảnh mùa hè sống động khi nghe tiếng gọi của bầy tu hú
    • Căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, cảm nhận
    • Một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quê hương
  • Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu nắng với nhiều góc độ
    • Ánh nắng của đôi ánh lạt ban chiều
    • Ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tớiAnh nắng đào
    • Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người
  • Sự xuất hiện của bầu trời nâng tầm nhận thức của nhà thơ

    • Thấp thoáng là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận.
    • Trên bầu trời con sáo diều cũng có được sự tự do, huống chi là con người.
  • Bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối
    • Nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ tìm đến tự do.
  • Bốn câu thơ cuối là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim uất hận
    • Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy.

    • Hè đã đến, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy tiếng gọi của tự do.

    • Người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng,

  • Khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn tìm đến không gian tự do
  • Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ
    • Thúc giục người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do.
    • Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ

3. Kết bài:Nêu cảm nghĩ về bài thơ

Bài văn:

Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống - mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài:

Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.

Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: Cô đơn thay là cảnh thân tù. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông luá chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân...

Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu:

Đây từng ô mạ xanh mơn mởn

(...)

Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!

Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc.

Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của đôi ánh lạt ban chiều (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một ánh nắng đào giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của vườn râm. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất:

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không

Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ - chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do.

Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự do. bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên:

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết mất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu

Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do.

Từ trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: đạp tan, chết uất, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng.

Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng.

Khi con tu hú là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

Back to top

Bài mẫu 2: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu

Dàn bài:

1. Mở bài:Giới thiệu về Tố Hữu và bài thơ "Khi con tu hú"

2. Thân bài:

  • Nhan đề được mang tên loài chim tu hú - thường cất tiếng kêu trong ngày hè.
  • Bức tranh ngày hè sôi động, vui tươi qua 6 câu thơ đầu
    • Tiếng chim tu hú đã đánh thức Tố Hữu
    • Bức tranh ngày hè với những thanh âm thật rộn rã: tiếng chim tu hú, tiếng ve, sáo diều
    • Màu sắc, hình ảnh trong khung cảnh cũng thật tươi tắn và rực rỡ:
      • Lúa chiêm vàng rực, những hạt bắp vàng ươm
      • Bầu trời trong xanh, Cánh đồng lúa chiêm vàng chín
      • Vườn trái cây "ngọt dầnđầy tươi vui và sức sống.
      • Không gian được mở rộng: "đôi con diều sáo lộn nhào từng không"
    • Cảnh ngày hè được dựng lên thật sống động, thể hiện tình yêu cuộc sống và cái nhìn tinh tế của Tố Hữu
  • Lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ: 4 câu thơ cuối
    • Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng chỉ là trong trí tưởng tượng của nhà thơ
    • Cảm xúc ngột ngạt, khao khát được tự do, đến với thiên nhiên, bầu trời
    • Tố Hữu đã liên tục sử dụng một loạt những động từ mạnh để diễn tả sự ngột ngạt, bực mình
    • Bài thơ mở đầu bằng tiếng tu hú, kết thúc cũng bằng tiếng tu hú:
      • Đầu bài thơ: Tiếng chim là tiếng gọi của tự do, của bầu trời bao la, đầy sức sống
      • Kết bài thơ: Tiếng chim lại khiến người tù cảm thấy đau khổ, bực bội vì bị giam cầm
    • Tiếng chim là lời thúc giục hối hả về sự tự do.

3. Kết bài:Nêu cảm nghĩ về bài thơ

Bài văn:

Tố Hữu được coi là lá cờ đầu trong nền thơ ca Cách mạng và kháng chiến. Thơ của ông thường hướng đến lý tưởng Cách mạng với những niềm tin yêu tuyệt đối vào Đảng và Bác Hồ. Điển hình trong số các tác phẩm của ông như tập thơ Từ ấy (1937 1946), Ra trận (1962 1971), Trong đó, tác phẩm Khi con tu hú được Tố Hữu sáng tác năm 1939 khi đang bị giam cầm trong nhà lao Thừa Phủ. Bài thơ là khung cảnh thiên nhiên vào hè thật rực rỡ hòa cùng với khát khao tự do đến cháy bỏng, cực độ của người tù Cách mạng trẻ tuổi.

Bài thơ được sáng tác khi Tố Hữu đang trong ngục tù, không thấy được tự do, không có chút ánh sáng. Thế nhưng, bừng lên trong lòng ông vẫn là tình yêu cuộc sống tha thiết và khát vọng cháy bỏng được thoát khỏi nơi chốn địa ngục này. Với nhan đề "Khi con tu hú", Tố Hữu muốn nhấn mạnh rằng tiếng chim ấy là thứ đã khiến ông thức tỉnh, đánh thức trong ông một tình yêu với cuộc sống, một khát vọng tự do mãnh liệt.

Chẳng vậy mà mở đầu bài thơ, Tố Hữu đã vẽ lên cho chúng ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vào hè thật tươi đẹp, đầy sống động và thấy được những âm thanh sôi động ngày hè mà đặc biệt là tiếng chim tu hú đang cất lên từng hồi để "gọi bầy":

"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không "

Giờ đây, giữa chốn lao tù, người thanh niên Cách mạng đang lắng tai nghe tiếng những con chim tu hú đang cất lên những âm thanh gọi nhau, gọi mùa hè đến. Tiếng gọi ấy như đánh thức trong tâm hồn người thanh niên niềm khao khát tha thiết đang sum họp với đồng đội, bạn bè. Và nó cũng đánh thức luôn nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo khi ông đang muốn đem tất cả nhiệt huyết cả thanh xuân mà cống hiến cho Cách mạng.

Tiếng chim tu hú đã đánh thức Tố Hữu, và ông bất chợt thấy mọi âm thanh của sự sống ngày hè đang ngay gần bên khung cửa. Ông thấy được tiếng ve đang ngân nga trong những vườn cây, thấy tiếng sáo diều đang vi vu trên bầu trời cao xanh ngoài khung cửa sổ nhà lao. Tất cả những âm thanh ấy sao mà sống động, tươi vui đến thế! Nó là một bản nhạc được hòa tấu bằng nhiều thứ âm thanh sặc sỡ, sống động mà rộn ràng, đầy sức sống, thúc giục con người ta tận hưởng.

Và không chỉ vậy, tiếng chim tu hú kia còn đánh thức hết thảy mọi giác quan của Tố Hữu. Ông như đang nhìn thấy những màu sắc thật tươi tắn, rực rỡ của ngày hè. Nào là những cánh đồng lúa chín vàng óng đang đến ngày thu hoạch, những hạt bắp vàng đang óng ánh giữa sân "nắng đào" hồng tươi, nào là bầu trời xanh thẳm, biêng biếc xanh Tất cả những màu sắc ấy thật tươi đẹp, thật giàu sức sống, vẫy gọi người tù Cách mạng đến mà tận hưởng. Và màu xanh của bầu trời kia hay chăng còn là màu xanh của tự do nhà thơ đang mơ ước, là bầu trời của hòa bình tươi đẹp trong con mắt của người Cách mạng?

Tố Hữu nghe tiếng chim tu hú mà như thấy được những khung cảnh thật đậm sắc thái đặc trưng của ngày hè. Đó là hình ảnh cánh đồng lúa chiêm bát ngát đang chín rực, là vườn trái cây trĩu nặng quả ngọt đang "ngọt dần". Tất thảy mọi sự vật đang dần tiến đến độ "chín", độ hoàn mĩ của mình. Phải tinh tế lắm thì Tố Hữu mới nhận ra được sự vận động êm đềm của thời gian đang chuyển dần sang hạ từ tốn đến như thế! Phải, đâu phải ai cũng đủ nhạy bén mà cảm nhận được hương thơm của vườn cây trái từ trong lao ngục, đâu phải ai cũng nghe được âm thanh của mùa hè náo nức đến thế qua bức tường đá cầm tù lạnh lẽo? Phải là người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có thể có những cảm nhận thực sự đặc sắc đến như vậy được chứ?

Tưởng chừng như những người tù, không gian bốn bề của bao quanh bởi bức tường đá lạnh lẽo, nhưng với Tố Hữu thì không. Bởi ông cảm nhận được cả một không gian đang rộng mở ngay trước mặt, rộng rãi, khoáng đạt biết mấy, mênh mông, rộng lớn biết chừng nào:

" Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không "

Hình ảnh "đôi con diều sáo" như một nét chấm phá nhỏ nhoi giữa bầu "trời xanh" đang rộng mở. Thế nhưng, có lẽ Tố Hữu cũng chỉ mong được làm cánh diều sáo nhỏ nhoi ấy để được tự do, thỏa thuê tung bay giữa bầu trời xanh, giữa những bè bạn, đồng chí thân yêu của mình?

Một bức tranh ngày hè thật quá đỗi sống động, với đầy đủ âm thanh, màu sắc, với không gian và hình ảnh thật rực rỡ. Với phép liệt kê được sử dụng hết sức nhuần nhuyễn, Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh ngày hè thanh bình, đẹp tươi và giàu sức sống chỉ bằng trí tưởng tượng của mình. Chắc hẳn Tố Hữu phải yêu quê hương mình tha thiết lắm mới có thể tinh tế mà hình dung ra và nắm bắt được hết âm sắc của ngày hè dung dị qua từng ấy câu thơ.

Tố Hữu là một trong những người giác ngộ Cách mạng sớm nhất. Ông hiểu, tin yêu con đường Cách mạng của Bác Hồ. Ông hiểu làm Cách mạng là phải gắn với tù đày, như ông đã nói trong một bài thơ của mình rằng:

"Đời cách mạng từ đây tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày".

Ông hiểu là thế nên cũng như muôn vàn người đồng đội khác, khi phải đứng trong nhà lao, giữa bốn bức tường cô quạnh, ông chỉ muốn thật mau được thoát ra khỏi, để lại được sum vầy cùng đồng đội, sát cánh chiến đấu với kẻ thù. Bốn câu thơ cuối trong bài thơ Khi con tu hú là tâm trạng, là cảm xúc của Tố Hữu, là khát khao muốn được tự do của người tù Cách mạng:

"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu"

Đọc đến đây, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta mới nhận ra rằng bức tranh phong cảnh bên trên, tất cả chỉ được "vẽ" lên qua tâm tưởng của nhà thơ. Mùa hè bên ngoài đang tươi đẹp là thế, mà người tù Cách mạng lại phải ngồi đây, biệt giam trong nhà lao Thừa Phủ. Và thế là niềm khao khát tự do bừng dậy thật mạnh mẽ trong lòng Tố Hữu. Nhịp sống ấy cứ dâng trào, sôi sục trong lòng khiến ông không thể kìm nén mà thốt lên:

"Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi"

Khao khát tự do đã len lỏi vào từng tế bào trong cơ thể người thanh niên trẻ, biến nỗi khao khát ấy trở thành hành động cụ thể muốn "đạp tan phòng" giam để được đến với tự do. Nhà thơ muốn được chạy ra ngoài kia, đến với tự do, đến với thế giới rộng mở, to lớn, thoát khỏi cái nhà lao chật hẹp, tăm tối này.

Sự bức bối ấy khó chịu đến mức chỉ vài câu thơ, Tố Hữu đã liên tục sử dụng một loạt những động từ mạnh để diễn tả sự ngột ngạt, bực mình đến cực điểm của mình trong chốn lao tù của mình: nào là "đạp tan", nào là "chết uất". Toàn những từ ngữ thật mạnh bạo, có lẽ khao khát tự do đã quá cháy bỏng, cái không khí ngột ngạt, bức bối đã khiến cho nhà thơ trở nên thật nhạy cảm, chỉ muốn đạp tan hết mọi thứ để được bước đến với tự do ngoài kia. Kèm với những động từ mạnh là những từ ngữ cảm thán được sử dụng liên tục: "ôi, thôi, sao, làm sao" khiến cho chúng ta càng cảm nhận rõ hơn sự ngột ngạt tới bức bách của người thanh niên Cách mạng.

Cũng ở trong cùng những dòng thơ này, Tố Hữu cũng sử dụng cách ngắt nhịp thơ nhanh 6/2 hoặc 3/3 mà chúng ta ít thấy để diễn tả cho chúng ta thấy sự ngột ngạt tới cao điểm mà nhà thơ đang phải chịu đựng đồng thời bộc lộ khát khao tự do đến cháy bỏng của mình, muốn được thoát khỏi lao tù, trở về với thế giới tự do ngoài kia.

Như chúng ta có thể nhận thấy, bài thơ được mở đầu bằng tiếng chim tu hú và kết lại cũng bằng tiếng chim tu hú kêu. Đây là âm thanh gợi lên tất cả, xuyên suốt toàn bài thơ, khắc khoải mà da diết. Ở đầu bài thơ, tiếng chim là tiếng kêu của tự do, của đất trời bao la ngày hè đầy sức sống đang vẫy gọi thì ở câu kết bài, tiếng chim ấy lại là tiếng kêu khiến cho người tù cảm thấy đau khổ, khắc khoải và bực bội nhất. Bởi ông đang bị giam cầm trong thế giới mất tự do và tiếng chim kia lại tha thiết mời gọi đến với tự do, càng khiến ông thêm dằn vặt, bực bội hơn bao giờ hết.

Có thể nói, tiếng chim tu hú chính là tiếng gọi của tự do, cho sự sống. Nó khiến cho người tù Cách mạng phải bồn chồn, xao xuyến, mong mỏi được thoát ra khỏi không gian ngột ngạt chốn lao tù để hòa mình vào thế giới của tự do. Sâu trong từng câu chữ hòa với tiếng chim tu hú là khát vọng được tự do trong một đất nước hòa bình độc lập.

Về mặt nghệ thuật trong bài thơ, Tố Hữu đang thành công khi sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc thể thơ lục bát, vừa uyển chuyển lại dễ hiểu dễ nghe. Nhịp thơ được ông biến chuyển linh hoạt, được ngắt nhịp đều đặn xúc cảm và tâm trạng của nhà thơ. Ngôn ngữ ông sử dụng cũng giản dị, dễ hiểu, hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi, lời thơ da diết thể hiện niềm khát vọng cháy bỏng của nhà thơ.

Bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã dựng lên bức tranh ngày hè thật đẹp đẽ với đầy đủ âm thanh và sắc màu. Tất cả đều toát lên một sức sống cực kì mãnh liệt. Tình cảm trong bài thơ được nhà thơ thể hiện sâu sắc và da diết qua thể thơ lục bát mộc mạc. Bài thơ là tình yêu cuộc sống tha thiết, sâu nặng của nhà thơ và niềm khao khát tự do tới cháy bỏng của người tù Cách mạng trong hoàn cảnh tù đày.

Back to top

Bài mẫu 2: Cảm nhận của em vềlòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu

Dàn bài:

1. Mở bài:Giới thiệu về Tố Hữu và bài thơ

2. Thân bài:

  • Sáu câu thơ đầu: Bức tranh ngày hè sôi động, vui tươi:
    • Bức tranh ngày hè với những thanh âm thật rộn rã:
      • Tiếng chim tu hú: "gọi bầy"
      • Tiếng ve râm ran, tiếng sáo diều vi vu trên không
    • Màu sắc trong khung cảnh cũng thật tươi tắn và rực rỡ:
      • Lúa chiêm vàng rực, những hạt bắp vàng ươm
      • Cả sân nhà đều bao trùm bởi màu nắng hồng "đào"
      • Bầu trời trong xanh
    • Hình ảnh mang đậm sắc thái của ngày hè sôi động:
      • Cánh đồng lúa chiêm vàng chín, vườn trái cây đang "ngọt dần:
    • Không gian trong bức tranh được mở rộng, cao, thoáng đạt
    • Cảnh ngày hè được dựng lên thật sống động với đầy âm thanh, sắc màu, không gian
    • Thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ
  • Bốn câu thơ cuối là tâm trạng, cảm xúc của người tù Cách mạng
    • Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng chỉ là trong trí tưởng tượng của nhà thơ
    • Cảm xúc ngột ngạt, khao khát được tự do, đến với thiên nhiên, bầu trời:
      • Thể hiện qua cách nhà thơ sử dụng 1 loạt những động từ mạnh
      • Nhịp thơ ngắt quãng nhanh 6/2, 3/3
    • Bài thơ mở đầu bằng tiếng tu hú, kết thúc cũng bằng tiếng tu hú
    • Cả hai tiếng chim đều gợi lên sự tự do, biểu tượng cho sự sống
    • Tiếng chim còn là lời thúc giục hối hả về sự tự do.

3. Kết bài:Nêu cảm nghĩ về bài thơ

Bài văn:

Mỗi tác phẩm văn học đều được các tác giả coi như đứa con yêu quý của mình để bộc lộ những dòng tâm sự thầm kín. Với Tố Hữu cũng vậy, thông qua đứa con tinh thần "Khi con tu hú", nhà thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa hè rạo rực với khát vọng tự do, tình yêu quê hương, đất nước đến mãnh liệt:

"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu!"

Bài thơ "Khi con tu hú" được nhà thơ sáng tác trên con đường hoạt động cách mạng và bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ - Huế. Tiếng chim tu hú đã phá tan song sắt, len lỏi vào trong tâm hồn làm thức tỉnh con người:

"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần"

Tu hú đến mang theo mùa hè với biết bao hương sắc, Tố Hữu cảm nhận được lúa chiêm đang chín khiến cho hình ảnh những cánh đồng lúa chín vàng như hiện lên trước mắt chúng ta. Tiếng chim tu hú đã làm bừng tỉnh một góc tăm tối trong tâm hồn thi nhân với khao khát được hoà hợp cùng thiên nhiên đến mãnh liệt. Không chỉ thế, nhà thơ còn ngửi thấy những hương thơm thoang thoảng của hoa quả chín dần tác động vào khứu giác. Có lẽ, nhà thơ cảm nhận được thời gian trôi đi thật nhanh và muốn níu giữ những hương thơm của đất trời nên đã viết rằng "đang chín" và "ngọt dần" chứ không phải đã chín và đã ngọt.

Trong bức tranh thiên nhiên ấy không chỉ có âm thanh của tiếng chim tu hú, màu vàng của lúa chín, hương vị của trái cây ngọt dần mà còn có cả âm thanh của tiếng ve, tiếng sáo diều đang tự do bay lượn trên bầu trời xanh thẳm và màu vàng của những sân ngô pha thêm chút màu hồng của nắng đào:

"Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không..."

Tiếng ve ngân vang trong vòm lá đưa ta trở lại những hồi ức của một thời cắp sách đến trường. Qua trí tưởng tượng củaTố Hữu, người đọc như được tận mắt chứng kiến một bức tranh thiên nhiên vùng quê đầm ấm và tươi vui. Điểm nhìn của nhà thơ được mở rộng ra những sân "bắp rây vàng hạt" hoà quyện cùng những tia nắng chói chang của mùa hạ. Có lẽ màu hồng của những tia nắng chính là cái nhìn tích cực của nhà thơ về thế giới bên ngoài với một khao khát được tự do trong một ngày gần nhất. Ở dưới mặt đất có những sân ngô vàng hạt thì trên bầu trời xanh thẳm kia có những con diều sáo đang tự do bay lượn.

Bằng ngòi bút tinh tế, nhà thơ đã tạo nên một tuyệt tác của mùa hè đầy sinh động và vui tươi. Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát, một thể thơ quen thuộc trong dân gian để phác hoạ thành công bức tranh thiên nhiên ấy. Đặc biệt, phép liệt kê được sử dụng một cách nhuần nhuyễn tạo cho người đọc những ấn tượng khó quên về một mùa hè tràn đầy hương sắc. Chắc hẳn nhà thơ phải rất yêu thiên nhiên, có một tình cảm đặc biệt với mảnh đất mình sinh ra nên mới có thể tạo ra bức tranh mùa hè đẹp đến vậy.

Bức tranh thiên nhiên về mùa hạ dưới đôi mắt của Tố Hữu không chỉ đẹp mà còn chứa đựng biết bao tâm sự:

"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết mất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu!"

Mạch thơ từ nhung nhớ những âm vang của mùa hạ nay chuyển sang những uất ức vì bị giam cầm. Mùa hè đến đem theo bao mong ước, hoài niệm như muốn thôi thúc người thanh niên ấy phá tan song sắt, "đập tan phòng" để đổi lấy tự do. Nhà thơ nghe ngoài trời "hè dậy bên lòng" mà không khỏi bứt rứt chân tay. Dòng máu của lòng uất hận đang trào dâng trong cơ thể khiến ông muốn thoát khỏi không gian tù túng chật hẹp ấy để được lao ra ngoài hoà mình vào thiên nhiên rộng lớn.

Ngoại cảnh đã tác động khiến nhà thơ cảm thấy bức bối, ngột ngạt, muốn lao ra thế giới bên ngoài nhưng lại bị những song sắt của nhà tù thực dân kìm hãm đành thốt lên thành lời than:

"Ngột làm sao chết mất thôi"

Khao khát tự do của Tố Hữu ngày càng trở nên mãnh liệt bởi ông muốn cống hiến cho cách mạng, muốn tiếp tục con đường cách mạng của mình. Nhà thơ đã sử dụng các động từ mạnh "đạp", "ngột", "chết" và dấu chấm than cuối câu thơ để bộc lộ những dòng cảm xúc phẫn uất đang trực trào. Biết làm sao khi ta đang bị giam cầm mà con chim tu hú ở ngoài trời vẫn cứ kêu. Phải chăng nhà thơ cảm nhận được đó là tiếng gọi của cách mạng đang giục giã nhà thơ lên đường kháng chiến cứu nước. Tiếng chim tu hú gọi bầy trước không gian to lớn mênh mông đã tạo nên sự đối lập trong tâm hồn nhà thơ khi nhà thơ đang bị giam cầm không thể ra ngoài để hoạt động cách mạng. Nếu tiếng chim tu hú ở phần đầu báo hiệu mùa hè tới với biết bao tươi vui thì tiếng chim tu hú ở cuối bài lại khiến nhà thơ cảm thấy khó chịu và ngột ngạt. Nhà thơ muốn thoát li khỏi chốn lao tù nhưng hiện thực nghiệt ngã khiến cho tâm trạng nhà thơ càng trở nên bực dọc, khó chịu hơn. Thế nhưng dù có phải chịu cảnh tù đày nhà thơ vẫn không nản chí sờn lòng, trong bài thơ "Trăng tối" nhà thơ đã viết:

"Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày"

Bởi vậy, dù con đường cách mạng có khó khăn đến đâu thì nhà thơ cũng sẽ đương đầu và hoàn thành tốt các nhiệm vụ.

Bài thơ "Khi con tu hú" đã khép lại nhưng tiếng chim tu hú vẫn vang vọng mãi trong tâm hồn nhà thơ. Qua bức tranh thiên nhiên tràn đầy hương sắc được cảm nhận bằng nhiều giác quan đã giúp Tố Hữu giãi bày được những uất ức trong lòng mình. Với cách sử dụng ngôn từ giản dị nhưng có tính tạo hình cao đã khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà thơ. Người nghệ sĩ không chỉ cầm bút để đánh giặc mà còn có thể cầm súng ra chiến trường. Họ có một niềm khao khát tự do đến cháy bỏng, khát khao được đứng trong hàng ngũ của Đảng để mang sức mình phục vụ cách mạng.

Back to top