Quy luật thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là gì

QUY LUẬT RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN,LIÊN HỆ VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMTrong xã hội có giai cấp luôn tồn tại mâu thuẫn về quyềnlợi giữa các giai cấp. Chính mâu thuẫn về lợi ích ấy dẫn đếnmau thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh giữacác giai cấp ban đầu đơn thuần chỉ là sự đấu tranh trênphương diện kinh tế nhưng khi nó đã phát triển đến một mứcđộ nhất định thì trở thành cuộc đấu tranh vì quyền lợi chínhtrị. Đấu tranh chính trị là hình thức bao quát, tập trung vàmạnh mẽ nhất của đấu tranh giai cấp và đỉnh cao của nó làcuộc cách mạng xã hội lật đổ ách thống trị của giai cấp cũ,giành chính quyền về tay giai cấp mình và xây dựng chế độ xãhội mới.Đấu tranh giai cấp phát triển đến một mức độ nhất địnhđòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo để thống nhất mọi hoạtđộng của giai cấp, đề ra đường lối đúng đắn phù hợp để đạtđược mục tiêu tranh đấu, tức là lật đổ ách thống trị của giaicấp thống trị xã hội lúc bấy giờ. Điều này tất yếu dẫn đến sựra đời của các đảng, đảng là sản phẩm lịch sử của chính cuộcđấu tranh giai cấp. Đảng của bất cứ giai cấp nào cũng ra đờitheo quy luật trên.Đảng Cộng sản không nằm ngoài quy luật chung. Chínhđảng của giai cấp công nhân ra đời từ cuộc đấu tranh giai cấpcủa giai cấp công nhân nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử củamình với mục tiêu giải phóng giai cấp mình ra khỏi ách ápbức bóc lột, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xãhội, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thếgiới.Qua thực tiễn lịch sử, có thể thấy rằng Đảng Cộng sản rađời là sản phẩm của của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hộikhoa học với phong trào công nhân. Trước khi xuất hiện chủnghĩa xã hội khoa học, phong trào công nhân hoàn toàn tưphát. Sơ khai của cuộc đấu tranh ấy chính là các vụ đập phámáy móc tại các nhà máy. Lúc này công nhân chưa hoàn toànnhận thức được kẻ thù thật sự bóc lột mình là ai. Khi phongtrào công nhân phát triển hơn, giai cấp công nhân bước đầunhận thức được kẻ thù thật sự, họ cùng nhau lập ra các côngđoàn tổ chức bãi công biểu tình, đòi tăng lương giảm giờlàm…nhưng suy cho cùng, các hình thức đấu tranh ấy vẫn chỉdiễn ra về mặt kinh tế, mang tính hạn chế, chỉ có thể thay đổihình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác trong khuônkhổ của chủ nghĩ tư bản mà thôi.Xuất phát từ bối cảnh xã hội xảy ra những mâu thuẫn đốikháng ấy, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời nhằm lí giải nhữngvấn đề trong xã hội, được Mác, Ăngghen sáng lâp và Lêninphát triển bổ sung làm phong phú cả về lí luận đến thực tiễn.Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời sau phong trào công nhân, thờikì đầu chưa gắn kết với phong trào công nhân mà chỉ đượctruyền bá thông qua các hội nhóm của những nhà lí luận. Trênthực tế, chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhâncó chung một nguồn gốc là quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa,tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất. Quan hệ kinh tế này làmnảy sinh các mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp và cáccuộc đấu tranh giai cấp. Phong trào công nhân xuất hiện vàngày càng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội khoa học vàphong trào công nhân lại nảy sinh ra từ hai tiền đề khác nhau.Chủ nghĩa xã hội khoa học là sản phẩm của việc nghiên cứunhững quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa, mặt khác còn là kếtquả khách quan tất yếu của quá trình nhận thức và phát triểnnhững tư tưởng tiến bộ của nhân loại được tạo ra đầu thế kỉXIX. Triết học Đức, Kinh tế chính trị học Anh và Chủ nghĩaxã hội không tưởng Pháp. Từ chổ đứng ngoài cuộc, chủ nghĩaxã hội khoa học đã gắn kết với phong trào công nhân, soi sángdãn đường cho phong trào công nhân, làm cho giai cấp côngnhân thấy được bản chất áp bức bóc lột dã man của giai cấp tưsản và chủ nghĩa tư bản, thấy được sứ mệnh lịch sử của mình.Từ đó nhận thức được việc phỉ tự tổ chức ra chính đảng củamình để lãnh đạo cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi hoàn toànxây dựng thành công củ nghĩa xã hội tiến tới xã hội cộng sản.Cùng với sự lãnh đạo của chính đảng của mình, giai cấp côngnhân từ đây trở thành lực lượng đi tiên phong trong cuộc đấutranh giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lộtcủa chủ nghĩa tư bản.Sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong tràocông nhân đến sự ra đời của Đảng Cộng sản được thực hiệnmột cách khách quan. Đó là quá trình giác ngộ và đấu tranh.Qua thực tiễn lịch sử, Đảng Cộng sản ngay từ khi ra đời đãmang bản chất cách mạng và khoa học, phát triển và trưởngthành trong quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp côngnhân.*Liên hệ với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt NamĐảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của tư tưởng HCM –sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnhcụ thể của cách mạng VN. Giữa lúc phong trào yêu nước củacác giai tầng trong xã hội diễn ra sôi nổi nhưng đều bị thựcdân Pháp dìm trong những biển máu. Con đường cách mạngvô sản đến với cách mạng VN như mở ra một tương lai tươisángXã hội VN lúc bấy giờ có rất nhiều điểm khác biệt so vớixã hội phương Tây. Bởi chúng ta là một nước thuộc địa nữaphong kiến, khiến dân ta khổ cực trăm bề. Trong xã hội, mâthuẫn gay gắt nhất không phải là mâu thuẫn giai cấp mà làmâu thuẫn dân tộc. Mâu thuẫn ấy quyết liệt dâng cao khôngngừng cuối cùng dẫn đến cách mạng xã hội, đập tan ách thốngtrị của thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhândân lao động, xây dựng xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ,văn minh. Trong cuộc đấu tranh đầy nguy nan ấy, cần phải cómột lực lượng đứng ra lãnh đạo toàn dân. Từ tư tưởng HCMcũng như đúc kết từ thực tiễn cho thấy, giai cấp lãnh đạo ấyphải là giai cấp công nhân, một giai cấp có tinh thần triệt đểcách mạng, có trình độ và điều kiện phù hợp để tiếp nhận lítưởng cộng sản, chủ nghĩa Mác – Lênin. Thế nhưng, giai cấpcông nhân còn cần phải tổ chức ra chính đảng của mình để đềra đường lối hướng đi của cách mạng, dẫn dắt toàn thể nhândân lao động đến với thắng lợi cuối cùng. “…trước hết cầnphải có đảng cách mệnh để trong thì tổ chức và vận động quầnchúng, ngoài thì liên lạc với vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng cóvững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái cóvững thuyền mới chạy”. Cũng tuân theo quy luật ra đời củaĐảng Cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sựkết hợp giữa một nền tảng lí luận vững chắc với thực tiễn đấutranh đầy cam go của nhân dân lao động. Ở đây chính là sựkết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM vớiphong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộcViệt Nam.

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.

Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.

Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.

Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.

Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.

Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.

Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. 

Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. 

Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.

Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.

Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.

Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.

Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng. 

Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Quy luật thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là gì

Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

(ST)