Văn bản hướng dẫn về tội làm nhục người khác

Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 215/2022/TLPT-HS ngày 29 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Lê Cao Đ. Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2022/HS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Lê Cao Đ, sinh năm 1986 tại tỉnh Phú Yên; nơi đăng ký thường trú: thôn Phú Long, xã A, huyện A1, tỉnh Phú Yên; nơi đăng ký tạm trú: tổ 3, ấp Vĩnh Tiến, xã V, huyện P, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Cao H1 và bà Triệu Thị Th; bị cáo có vợ tên Trần Phượng D, đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/3/2022 cho đến nay, có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn 01 bị hại không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Cao Đ và Giáp Thị T là bạn bè quen biết ngoài xã hội và có quan hệ tình cảm yêu thương nam nữ từ năm 2017. Trong thời gian yêu nhau Đ và T nhiều lần quan hệ tình dục tại nhà trọ của Đ thuộc ấp Trảng Sắn, xã V, huyện P, tỉnh Bình Dương. Lúc quan hệ tình dục, Đ nhiều lần sử dụng điện thoại di động Samsung Galaxy A8+ quay lại cảnh Đ và T quan hệ tình dục để làm kỷ niệm. Khoảng tháng 8 năm 2021, T chấm dứt mối quan hệ tình cảm với Đ, Đ nhiều lần muốn hẹn gặp T nhưng T không đồng ý nên Đ đã gửi 03 đoạn video quay lại cảnh Đ với T đang quan hệ tình dục cho ông Đặng Vũ D1, ông Vũ Bá N và bà Vũ Thị Phương M nhằm mục đích làm nhục bà T, cụ thể:

Ngày 07/11/2021, Đ sử dụng điện thoại Samsung Galaxy Note 10+ đăng nhập vào tài khoản zalo của Đ có tên “Cửa Sắt Thành Đạt” được đăng ký bằng số điện thoại 0981.798.1xx gửi 02 đoạn video và 01 tấm ảnh có cảnh Đ và T đang quan hệ tình dục với nhau qua zalo “Ah nam vu an linh” của ông Vũ Bá N.

Khoảng giữa tháng 11/2021 và ngày 18/11/2021, Đ tiếp tục sử dụng tài khoản zalo cá nhân có tên “Cửa Sắt Thành Đạt” gửi 03 đoạn video quay lại cảnh Đ và T quan hệ tình dục qua zalo “Ahdung nhà đầu tư Bd” của ông Đặng Vũ D1 và zalo “Em Mai Quỳnh Hương” của bà Vũ Thị Phương M. Sau khi xem xong video Đ gửi thì ông Vũ Bá N, ông Đặng Vũ D1 đã xóa do sợ ảnh hưởng đến gia đình, riêng bà Mai giữ lại 03 đoạn video Đ gửi, đồng thời ông D1, bà Mai báo cho Giáp Thị T biết việc Đ gửi video, hình ảnh nhạy cảm của T cho nhiều người để làm nhục T. Sau khi biết sự việc, ngày 25/11/2021, bà T làm đơn tố cáo Lê Cao Đ có hành vi làm nhục bà T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P để xử lý theo quy định.

Lê Cao Đ thừa nhận hành vi đã gửi 03 đoạn video quay lại cảnh Đ quan hệ tình dục với T qua ứng dụng zalo cho ông Đặng Vũ D1, ông Vũ Bá N, bà Vũ Thị Phương M nhằm mục đích làm nhục bà T.

Ngày 03/12/2021 và ngày 17/3/2022, Cơ quan điều tra lần lượt tiến hành trích xuất 03 đoạn video từ điện thoại di động của bà Vũ Thị Phương M, đồng thời thu giữ 03 tấm hình của Giáp Thị T để phục vụ công tác giám định.

Tại biên bản trích xuất dữ liệu điện thoại di động số 07 ngày 20/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương trích xuất từ điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10+ màu đen có số Imei 1: 351591115766738 và số Imei 2: 351592115766736, gắn thẻ sim số 0976.310.809 có tổng cộng 30 trang tìm thấy nhiều nội dung bị cáo Đ nhắn tin cho ông Vũ Bá N, bà Vũ Thị Phương M liên quan đến hành vi làm nhục bà T.

Từ trang 28 đến trang 30 của biên bản trích xuất dữ liệu từ USB hiệu SanDisk, màu đen, dung lượng 8GB, có hình ảnh 03 đoạn video quay lại cảnh Đ và T quan hệ tình dục với nhau. Ngày 12/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P tiến hành cho Lê Cao Đ, Giáp Thị T nhận dạng 03 đoạn video. Sau khi xem xong, Đ, T nhận ra người con gái và người đàn ông trong 03 đoạn video là Giáp Thị T và Lê Cao Đ.

Tại Kết luận giám định số 1806/KL-KTHS ngày 07/4/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh – Bộ Công an kết luận: 03 tập tin video ký hiệu từ A1 đến A3 không bị cắt ghép, chỉnh sửa về nội dung. Hình ảnh người nữ xuất hiện trong 03 tập tin video ký hiệu từ A1 đến A3 so với hình ảnh mẫu so sánh ký hiệu M là hình ảnh của cùng một người.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra tạm giữ:

- Một bì thư được niêm phong có dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, có chữ ký của Trần Minh Tùng, Phạm Văn Thái bên trong có 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy note 10+, màu xanh đen.

- Một bì thư được niêm phong có dấu mộc đỏ của Công an huyện P, có chữ ký của Trần Tuấn Anh, Bùi Anh Hùng, Lê Cao Đ bên trong có 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S21 Ultra 5G, màu bạc.

Về trách nhiệm dân sự: Lê Cao Đ đã bồi thường số tiền 30.000.000 đồng cho bị hại Giáp Thị T. Bà T đã nhận và không có yêu cầu gì thêm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2022/HS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Căn cứ các điểm a, e khoản 2 Điều 155, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 65 của Bộ luật Hình sự,

1. Về tội danh: tuyên bố bị cáo Lê Cao Đ phạm tội “Làm nhục người khác”.

2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Lê Cao Đ 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự quy định để giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Ngày 03 tháng 8 năm 2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã ra Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 46/QĐ-VKS kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Cao Đ theo hướng tuyên phạt tù và không cho bị cáo hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: về thời hạn kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đúng theo thời hạn luật định nên Tòa án nhân dân dân tỉnh Bình Dương đưa vụ án ra xem xét theo thủ tục phúc thẩm là đúng theo thẩm quyền và quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án hình sự sơ thẩm xác định. Bị cáo Lê Cao Đ và bà Giáp Thị T có quan hệ tình cảm yêu thương nam nữ sống với nhau như vợ chồng từ năm 2017. Sau khi bà T không tiếp tục sống chung với bị cáo, thì bị cáo có hành vi gởi các đoạn video quay cảnh quan hệ tình dục giữ bị cáo Đ và bà Tân cho nhiều người khác xem nhằm làm nhục bị hại, để bị hại quay lại sống với bị cáo. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của bị hại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, không cho bị cáo hưởng án treo, chuyển phạt 09 tháng tù đối với bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương, Bị cáo không ý kiến tranh luận, trong lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo được hưởng án treo để bị cáo ở nhà chăm sóc mẹ già và nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xác định: từ ngày 07/11/2021, bị cáo có hành vi chia sẻ 03 đoạn video cảnh quan hệ tình dục giữa bị cáo Lê Cao Đ và bị hại Giáp Thị T cho ông Đặng Vũ D1, ông Vũ Bá N và bà Vũ Thị Phương M bằng tin nhắn zalo nhằm mục đích xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bà T. Lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với Kết luận giám định số 1806/KL- KTHS ngày 07/4/2022 của Phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo sử dụng điện thoại di động gửi video cảnh quan hệ tình dục giữa bị cáo và bị hại cho 03 người nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung là phạm tội 02 lần trở lên và sử dụng phương tiện điện tử để phạm tội theo quy định tại các điểm a, e khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện P xét xử bị cáo về tội Làm nhục người khác” theo quy định tại điểm a, e khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương số 46/QĐ-VKS ngày 03/8/2022 kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Cao Đ theo hướng tuyên phạt tù và không cho bị cáo hưởng án treo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới có ông nội Lê Cao Phú là Liệt sỹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo Đ và bị hại T từng có mối quan hệ tình cảm nam nữ với nhau, chỉ vì bực tức do bị hại T đòi chia tay mà bị cáo làm nhục bị hại bằng cách nhiều lần sử dụng mạng xã hội Zalo lan truyền các đoạn video quay lại cảnh quan hệ tình dục giữa bị cáo và bị hại cho nhiều người quen biết xem. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng rất lớn đến danh dự, nhân phẩm của bị hại, vi phạm thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, hơn nữa bị hại là phụ nữ. Bị cáo phạm tội với 02 tình tiết định khung quy định tại điểm a, e khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Hình sự. Tuy bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm mới theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nhưng mức hình phạt tù cho hưởng án treo mà Tòa cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là chưa nghiêm, chưa tương xứng với tính chất, hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo, chưa đủ sức răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị tuyên bị cáo hình phạt tù là có cơ sở nên được chấp nhận. Sửa bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương.

[4] Ý kiến của Đ diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, tuyên bị cáo hình phạt tù là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm d khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

1. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2022/HS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Dương về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Cao Đ:

Áp dụng các điểm a, e khoản 2 Điều 155, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, Về tội danh: tuyên bố bị cáo Lê Cao Đ phạm tội “Làm nhục người khác”.

Về hình phạt: xử phạt bị cáo Lê Cao Đ 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Lê Cao Đ không phải chịu.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Thế nào là hành vi làm nhục người khác?

Tội làm nhục người khác được thể hiện thông qua hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, cụ thể: Các hành vi có thể thể hiện bằng lời nóinhằm hạ thấp nhân cách, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác. Chẳng hạn thể hiện bằng lời nói như: sỉ nhục, chửi bới một cách thô bỉ, tục tĩu…

Tội làm nhục người khác xử phạt thế nào?

Căn cứ Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Mức phạt tối đa với tội danh này là phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

Tội phỉ báng người khác phạt bao nhiêu?

Cụ thể, theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP, người thực hiện hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác sẽ bị phạt tiền từ 2 - 3 triệu đồng; hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình bị phạt tiền từ 5 - 20 triệu đồng.

Tội xâm phạm danh dự nhân phẩm người khác là gì?

Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác là hành vi dùng những lời lẽ khó nghe, mang tính sỉ nhục, thô bỉ, nhục mạ nhằm để hạ thấp, chà đạp giá trị của người khác. Đồng thời làm giảm uy tín, gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm của đối phương.