So sánh trạng ngữ tiếng trung và tiếng việt
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN \[ LIÊU NHỮ UY SO SÁNH CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC SO SÁNH Mã số : 602201 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Phức THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009 LÔØI CAÛM ÔN Chúng tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến với Tiến sĩ Nguyễn Đình Phức, người thầy đã tận tình và kỹ lưỡng chỉ dạy tôi từ những bước đầu tiên đến khi hoàn thành luận văn này. Chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn tất cả các Quý thầy cô trong hội đồng bảo vệ luận văn, các thầy cô đã đóng góp thêm nhiều ý kiến quý báu cho luận văn, cũng như bổ sung rất nhiều kiến thức cho bản thân tôi. Nhân đây chúng tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến phòng Sau đại học, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và hoàn thành luận văn này. Đồng Nai, tháng 02 năm 2009 Tác giả luận văn Liêu Nhữ Uy 2 QUY ƯỚC TRÌNH BÀY LUẬN VĂN Trong luận văn này chúng tôi có sử dụng một số ký hiệu, chữ viết tắt như sau: Trạng ngữ, được viết tắt là: TrN Tất cả trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán đều dùng hình thức bôi đen, in đậm. 3 MỤC LỤC Dẫn luận Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 7 Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 8 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 11 Phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu ........................................ 12 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................... 13 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CHUƠNG IV ĐỒNG DỊ CỦA TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
6 DẪN LUẬN
trong suốt quá trình học tập ở bậc Đại học cũng đã từng luôn lẫn lộn giữa trạng ngữ và định ngữ, luôn lờ mờ về cấu trúc cũng như ngữ nghĩa của trạng ngữ và bổ ngữ trong câu, đặc biệt đối với thành phần trạng ngữ, không thể phân biệt một cách lý tính đâu là trạng ngữ miêu tả phương thức tiến hành của động tác, đâu là trạng ngữ miêu tả trạng thái tâm lý của người thực hiện động tác. Theo thống kê của hai học giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp trong Thành phần câu tiếng Việt, truyện ngắn Hết một buổi chiều (in trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, Hà Nội, 1981), có lượng câu mang trạng ngữ chiếm 30% tổng số câu có trong tác phẩm①. Tác phẩm Bối ảnh《背影》của nhà văn Trung Quốc hiện đại Chu Tự Thanh 朱自清, qua khảo sát và thống kê, chúng tôi phát hiện, có tới 94,2% trên tổng số câu văn thuộc tác phẩm có sử dụng trạng ngữ②. Từ đây chúng tôi có thể thấy được vai trò quan trọng của trạng ngữ trong việc biểu đạt ngôn ngữ trong tiếng Hán hiện đại cũng như tiếng Việt. Cũng chính bởi nguyên nhân nói trên, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ So sánh cấu trúc và ngữ nghĩa trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại” làm đề tài cho luận văn mình. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 1. Lịch sử nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Việt Trạng ngữ là một vấn đề từ lâu đã được nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu. Kể từ khi hai chữ “trạng ngữ” được chính thức ra đời và đưa vào ① Theo thống kê của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp trong Thành phần câu tiếng Việt, truyện ngắn Hết một buổi chiều (in trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, Hà Nội, 1981), có lượng câu mang trạng ngữ chiếm 30% tổng số câu. (Xem Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, tr.321. ② Hán ngữ cao cấp giáo trình《汉语高级教程》, tập 1, Tập thể tác giả Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 2002, tr. 1-3. 8 sử dụng, cho đến nay hầu như không một bộ giáo trình ngữ pháp tiếng Việt nào không đề cập đến thành phần này. Mặc dù quan niệm về thành phần trạng ngữ trong tiếng Việt, giữa các học giả, đôi khi còn nảy sinh những bất đồng nhất định, nhưng chung quy đều thống nhất coi nó là thành phần phụ quan trọng, bổ sung ý nghĩa cho sự tình được biểu đạt trong câu. Thành tựu nghiên cứu về trạng ngữ phần lớn được trình bày trong các công trình sau: Khái niệm ngôn ngữ học, Nguyễn Văn Tu, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960. Giáo trình Việt ngữ, Hoàng Tuệ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1962. Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nguyễn Kim Thản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1964. Ngữ pháp tiếng Việt, Hoàng Trọng Phiến, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980. Ngữ pháp tiếng Việt - từ loại, Đinh Văn Đức, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1986. Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004. Ngữ pháp tiếng Việt, Nguyễn Hữu Quỳnh, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002. Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998. Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 1, Câu trong tiếng Việt (cấu trúc – nghĩa – công dụng), Cao Xuân Hạo (chủ biên), Nxb. Giáo dục, 2007. 2. Lịch sử nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Hán Thuật ngữ “状语 zhuàng yŭ” (phiên âm Hán Việt của hai chữ này là: trạng ngữ) trong tiếng Hán được các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc sử dụng tương đối muộn. Phải mãi đến cuối thế kỷ 19, khi Mã Kiến Trung, một trí thức Tây học, từng có thời gian dài du học tại Pháp, thông hiểu nhiều thứ 9 tiếng như Pháp, Anh, Hy Lạp, La Tinh,… đã đem hệ thống ngữ pháp Tây phương áp dụng vào nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán, và cho ra đời Mã thị văn thông《马氏文通》, bộ ngữ pháp đầu tiên, xuất bản năm 1898 tại Trung Quốc, thì thuật ngữ “trạng ngữ” mới chính thức được sử dụng. Từ những năm 50 của thế kỷ 20, thuật ngữ “trạng ngữ” bắt đầu được sử dụng phổ biến và ngày càng nhận được sự chú ý nghiên cứu từ nhiều nhà Hán ngữ học, đặc biệt là từ sau Đại cách mạng văn hoá kết thúc đến nay. Thành tựu nghiên cứu về trạng ngữ trong câu tiếng Hán hiện đại của các nhà Hán ngữ ngữ pháp học nhìn chung được thể hiện trong một số công trình sau đây: 《对外汉语教学使用语法》,卢福波著,北京,北京语言文化大学 出版社 1997 年版。 《古汉语语法》,张贻惠编著,湖北人民出版社 1957 年版。 《古今汉语比较语法》,张静、张桁著,郑州,河南人民出版社 1979 年版。 《汉语口语语法》,赵元任著,北京,商务印书馆 2005 年版。 《现代汉语》,胡裕树主编,上海,教育出版社 1979 年版。 《汉语语法论》,高名凯著,北京,商务印书馆 1982 年版。 《语法讲义》,朱德熙著,北京,商务印书馆 1982 年版。 《中国文法要略》,吕叔湘著,北京,商务印书馆 1982 年版。 《状语的分类和多项状语的顺序》,刘月华著,载于《语法研究和 探索》,北京大学出版社 1983 年版。 《实用现代汉语语法》,刘月华等著,外语教学与研究出版社 1983 年版。 《汉语语法史》,王力著,山东,教育出版社 1988 年版。 Có thể nói, thành tựu nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng 10 Hán đều hết sức to lớn, vừa theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhưng với hai hệ thống ngôn ngữ có lịch sử giao lưu lâu đời như tiếng Việt và tiếng Hán, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu so sánh một cách hệ thống, điều này không chỉ gây bất lợi cho việc dạy và học ngoại ngữ, cho việc nghiên cứu, thậm chí còn gây trở ngại đến quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá của cả hai quốc gia, hai dân tộc. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Về phạm vi nghiên cứu của luận văn, như chúng ta thấy, tuy tên đề tài này chỉ nhắc đến hai khía cạnh cấu trúc và ngữ nghĩa của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại, nhưng trên thực tế, có thể nói, đề tài này đồng thời có thể hiểu là nghiên cứu so sánh về tất cả mọi mặt của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. Bởi vì xét mặt “cấu trúc” chính là xét mặt hình thức của trạng ngữ, mà mặt hình thức thì không chỉ giới hạn ở khía cạnh nó (trạng ngữ) được tổ hợp bởi những thành tố nào, mà phải xét luôn nó có vị trí ra sao trong câu, nó có phạm vi sử dụng trong câu ra sao, nó được sắp xếp theo trật tự ra sao, phân loại ra sao….Một sự vật hiện tượng bất kỳ nói cho cùng không ngoài hai mặt nội dung (nghĩa) và hình thức, thế nên việc mở rộng phạm vi nghiên cứu như chúng tôi đã đề cập là hoàn toàn hợp lý, không vi phạm bất cứ một quy chuẩn nào. Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu như đã nêu, luận văn của chúng tôi ngoài phần trình bày cơ sở lý thuyết, trình bày những kiến thức làm cơ sở cho việc nghiên cứu so sánh. Ở chương so sánh, chúng tôi tập trung xoáy sâu vào những điểm tương đồng và khu biệt giữa trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại ở một số khía cạnh sau: So sánh đặc trưng về chức năng của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. So sánh vị trí của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. 11 So sánh phạm vi sử dụng của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. So sánh vấn đề phân loại trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. So sánh kết cấu của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. So sánh trật tự sắp xếp của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. So sánh đặc trưng ngữ nghĩa của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp sau: Tổng hợp những đặc trưng cơ bản nhất của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán, làm cơ sở để so sánh. Thống kê nguồn ngữ liệu liên quan đến trạng ngữ thuộc hai hệ thống tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. Trên cơ sở nguồn ngữ liệu đã thống kê, tiến hành phân tích, so sánh. Luận văn được trình bày theo cả hai hướng diễn dịch và quy nạp. 2. Tư liệu nghiên cứu Hệ thống tư liệu mà luận văn sử dụng, chủ yếu đến từ các nguồn sau: Các sách, báo, tạp chí, luận văn có nội dung liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài. Các tác phẩm văn học thuộc hai hệ thống ngôn ngữ Việt – Hán được xuất bản chính thức. Những quan sát của cá nhân về những điểm tương đồng và dị biệt của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. 12
Phần nội dung chính của luận văn bao gồm có 4 chương: Chương một: Cơ sở lý thuyết
14 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT
circonstanciel” trong tiếng Pháp và được gọi là “oбctoЯteπbctbo” trong tiếng Nga①. Học giả Hadumod Bussmann trong cuốn thuật ngữ từ điển ngôn ngữ học có tên Routledge dictionary of language and linguistics đã định nghĩa “trạng ngữ” như sau: “Collective term for several syntactic functions with various semantic realizations; an adverbial characterizes a verbal action, process, or state of affairs with respect to time, place, kind, manner, etc. ②” Nghĩa là: “Tập hợp các điều kiện cho tất cả các chức năng cú pháp với sự nhận thức các nghĩa khác nhau, đặc điểm của trạng ngữ một hành động nói hoặc phát biểu một vấn đề với các mong muốn thời gian, nơi chốn, loại, cách thức,…”. Nhóm các nhà ngôn ngữ học trong Longman grammar of spoken and written English lại đem “trạng ngữ” định nghĩa như sau: “Adverbials are elements of clauses with three major functions: to add circumstantial information about the proposition in the clause, to express speaker/ writer stance towards the clause, or to link the clause (or Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học Việt – Anh – Pháp – Nga, Vương Toàn (chủ biên), Nxb. Từ điển Bách khoa, 2003, tr. 400. ② Routledge dictionary of language and linguistics, Hadumod Bussmann, London and New York,( prined in Great Britain ), 1995, tr.8-9. ① 15 some part of it) to some other unit of discourse.①” Nghĩa là: “Trạng ngữ là những cụm từ thuộc cấu trúc câu với ba chức năng chính: bổ sung những thông tin về tình huống cho sự tình được nêu trong câu; biểu đạt phương thức, tư thế của người nói/người viết trong câu; hoặc nối kết câu (hoặc một số bộ phận thuộc câu) với những bộ phận cấu thành khác thuộc văn bản”. Với ba chức năng chính nêu trên, theo nhóm các tác giả nói trên, trạng ngữ được phân chia thành ba loại lớn: trạng ngữ tình huống (circumstance adverbials), trạng ngữ phương thức (stance adverbials) và trạng ngữ liên hệ (linking adverbials). Ví dụ:
16 nhân, kết quả, điều kiện, trình độ, v.v.. Thuật ngữ “状语 zhuàng yŭ” (phiên âm Hán Việt của hai chữ này là: trạng ngữ. Để tiện theo dõi, dưới đây chúng tôi chỉ sử dụng hai chữ “trạng ngữ”) trong tiếng Hán được các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc sử dụng tương đối muộn. Phải mãi đến cuối thế kỷ 19, khi Mã Kiến Trung, một trí thức Tây học, từng có thời gian dài du học tại Pháp, thông hiểu nhiều thứ tiếng như Pháp, Anh, Hy Lạp, La Tinh,… đã đem hệ thống ngữ pháp Tây phương áp dụng vào nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán, và cho ra đời Mã thị văn thông《马 氏文通》, bộ ngữ pháp đầu tiên, xuất bản năm 1898 tại Trung Quốc, thì thuật ngữ “trạng ngữ” mới chính thức được sử dụng. Trong Mã thị văn thông《马 氏文通》, liên quan đến hai chữ “trạng ngữ”, Mã Kiến Trung định nghĩa như sau: “凡状字或名字,集至两字或三四字,以记时记处者,往往自成一 顿,无所名也,名之状语。Phàm trạng tự hoặc danh tự, tập chí lưỡng tự hoặc tam tứ tự, dĩ ký thời ký xứ giả, vãng vãng tự thành nhất đốn, vô sở danh dã, danh chi trạng ngữ.” Nghĩa là: “Phàm hai ba hoặc ba bốn trạng tự (chỉ phó từ đơn âm tiết) hoặc danh tự (chỉ danh từ đơn âm tiết) đứng gần nhau, dùng để chỉ thời gian, nơi chốn, thường dùng dấu ngắt để tạo thế độc lập với các thành phần khác, chúng chưa từng có tên gọi, nay ta gọi chúng là trạng ngữ.①” Ở đây, cũng cần nói rõ rằng, tuy Mã Kiến Trung đã làm công việc gọi tên trạng ngữ, nhưng xét trên quan điểm ngữ pháp hiện đại, thuật ngữ “trạng ngữ” theo quan điểm của ông vẫn không khác “trạng tự”, một thuật ngữ mà ông quen dùng, và nét khu biệt giữa cả hai chỉ là trạng ngữ có sự tăng tiến về số chữ mà thôi. Trạng tự thì chỉ có duy nhất một chữ, còn trạng ngữ thì có hai chữ (tự) trở lên, xét những trạng ngữ mà ông nêu ra, như “於是 ư thị”(thế là), “今也 ① Mã thị văn thông độc bản 《马氏文通读本》, Lã Thúc Tương, Vương Hải Phấn biên, Thượng Hải Giáo dục xuất bản xã, 2000, tr.670 – 671. 17 kim dã” (nay, hiện nay, ngày nay), “虽然 tuy nhiên”, “始也 thuỷ dã” (ban đầu), “ 久 之 cửu chi” (lâu dần, rất lâu sau), “ 不 然 bất nhiên” (nếu không),…có thể đem chúng cùng “trạng tự” quy chung vào khái niệm trạng từ hoặc phó từ. Nhìn từ góc độ ý nghĩa, khái niệm “trạng ngữ” mà Mã Kiến Trung nêu ra nhìn chung chỉ dừng lại ở hai nét nghĩa thời gian và nơi chốn, điểm này so sánh với tập hợp đa dạng các nét nghĩa của thuật ngữ trạng ngữ theo quan niệm của ngữ pháp hiện đại, rõ ràng vẫn còn một khoảng cách khá xa. Trương Di Huệ trong Cổ Hán ngữ ngữ pháp xuất bản ở Trung Quốc vào năm 1957, đem trạng ngữ cùng định ngữ xếp chung vào thành phần tu sức của câu, đồng thời đưa ra định nghĩa như sau: “副词外,名词、代词、形容词、 动词、数量词、词组都可以作状语,以修饰动词为主,但也修饰形容词 或其他副词。Phó từ ngoại, danh từ, đại từ, hình dung từ, động từ, số lượng từ, từ tổ đô khả dĩ tác trạng ngữ, dĩ tu sức động từ vi chủ, đãn dã tu sức hình dung từ hoặc kỳ tha phó từ.” (Ngoài phó từ, danh từ, đại từ, tính từ, động từ, số lượng từ, từ tổ đều có thể làm trạng ngữ, chủ yếu dùng để tu sức cho động từ về mặt ý nghĩa, nhưng đồng thời cũng có thể tu sức cho tính từ hoặc một số phó từ khác①). Như vậy, đặc trưng cơ bản của thành phần trạng ngữ trong câu tiếng Hán đã được định hình. Nhưng định nghĩa của Trương Di Huệ dù sao vẫn có xuất phát điểm từ tiếng Hán cổ đại, một đối tượng có khoảng cách nhất định so với đối tượng mà luận văn này chọn so sánh. Nhà ngữ pháp học Trung Quốc Lư Phúc Ba trong bộ Đối ngoại Hán ngữ giáo học thực dụng ngữ pháp《对外汉语教学实用语法》, do nhà xuất bản Đại học Ngôn ngữ Văn hoá Bắc Kinh xuất bản năm 1997, định nghĩa “trạng ① Cổ đại Hán ngữ ngữ pháp《古代汉语语法》, Trương Di Huệ , Hồ Bắc Nhân dân xuất bản xã, Vũ Hán, 1957, tr.118. 18 ngữ” dưới góc nhìn thực dụng như sau: “状语是用来修饰动词、形容词 的,在句中是谓语部分的修饰成分。Trạng ngữ thị dụng lai tu sức động từ, hình dung từ đích, tại cú trung thị vị ngữ bộ phận đích tu sức thành phần.” (Trạng ngữ là thành phần chuyên dùng tu sức cho động từ và tính từ, nó là thành phần tu sức cho vị ngữ trong câu.①) Ở đây, Lư Phúc Ba đồng thời nêu ra bốn câu mang trạng ngữ như sau:
① Đối ngoại Hán ngữ giáo học thực dụng ngữ pháp《对外汉语教学实用语法》, Lư Phúc Ba soạn, Nxb. Đại học Ngôn ngữ Văn hoá Bắc Kinh, 1997, tr.181. 19 khi nào, cũng không rõ mối quan hệ ngữ âm của nó với thuật ngữ “状语 zhuàng yŭ” (phiên âm Hán Việt: trạng ngữ) được sử dụng trong tiếng Hán ra sao, nhưng xét bộ Việt Nam văn phạm của Trần Trọng Kim, sách do Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản lần đầu năm 1936, hai chữ “trạng ngữ” vẫn chưa xuất hiện, nó vẫn được tác giả đặt trong phạm vi của túc từ ① và một bộ phận thuộc khái niệm “trạng tự”②. Học giả Nguyễn Văn Tu trong Khái niệm ngôn ngữ học cho rằng: “Trạng ngữ là thành phần phụ của câu có ý nghĩa biểu thị đặc điểm của hành động, cách thức hành động, chỉ định hành động xảy ra trong tình huống và điều kiện nào.③” Cố Giáo sư Nguyễn Kim Thản trong Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, 2 tập, do Nxb. Khoa học Xã hội xuất bản lần đầu năm 1963 định nghĩa trạng ngữ như sau: “Trạng ngữ là thành phần thứ yếu của câu, biểu thị các ý nghĩa thời gian, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, phương tiện hay tình thái. Trạng ngữ có khả năng biến đổi về vị trí trong câu tự do hơn các thành phần khác.④” Như vậy, dưới bình diện kết học (syntactics) [tức câu được xem xét về cấu trúc hình thức như các thành phần câu (chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ,…) và mối quan hệ giữa các thành phần câu] kết hợp với bình diện nghĩa học (semantics), trong đại đa số các hệ thống ngôn ngữ Á-Âu, trạng ngữ nhìn chung đều được coi là thành phần phụ của câu, bổ sung hoặc tu sức ý nghĩa về các mặt địa điểm, thời gian, cách thức, phương tiện, tình hình, nguyên nhân, mục đích,… cho sự tình được đề cập trong câu. Dưới bình diện dụng học (pragmatics) (trong ngôn ngữ học được gọi là ① Việt Nam văn phạm, Trần Trọng Kim, Nxb. Thanh Niên, 2007, tr.28-29. ② Việt Nam văn phạm, Trần Trọng Kim, Nxb. Thanh niên, 2007, tr.136-147. ③ Khái niệm ngôn ngữ học, Nguyễn Văn Tu, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr.219. ④ Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Nguyễn Kim Thản, Nxb. Khoa học Xã hôi, Hà Nội, 1964, tr.212. 20 |