Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định như thế nào về thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự?

Tranh chấp dân sự là một loại tranh chấp phổ biến và phức tạp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các cấp Tòa án. Khi các cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có quyền dân sự bị xâm phạm, họ được quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo 2 cấp xét xử là sở thẩm và phúc thẩm.

Sơ thẩm là gì?

Chưa có 1 quy định, định nghĩa về phiên toàn sơ thẩm dân sự tại Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, phiên tòa sơ thẩm dân sự là phiên tòa đầu tiên, là một giai đoạn độc lập trong thủ tục tố tụng dân sự. Phiên toàn sơ thẩm dân sự gồm 4 phần: Thủ tục bắt đầu phiên tòa, Tranh Tụng tại phiên tòa; Nghị án; Tuyên án.

Phúc thẩm là gì?

Phúc thẩm là việc bản án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Kháng cáo là 1 quyền tố tụng quan trọng của đương sự và của những chủ thể khác được pháp luật ghi nhận việc đồng ý hay không đồng ý với phán quyết của Tòa án sơ thẩm, yêu cầu tòa án có thẩm quyền xem xét lại vụ án.

>>> Tư vấn luật miễn phí

Sự khác nhau cơ bản giữa phiên toàn sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm trong vụ án dân sự theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.

1. Cơ sở phát sinh

-Sơ thẩm: đơn khởi kiện được tòa án thụ lý

-Phúc thẩm: đơn kháng cáo của người tham gia tố tụng hoặc kháng nghị của viện kiểm sát.

2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết

-Sơ thẩm: là tòa án thụ lý vụ án có đầy đủ thầm quyền giải quyết

-Phúc thẩm: tòa án cấp trên trực tiếp có thầm quyền giải quyết

3. Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

– Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Bộ luật này. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.

– Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Bộ luật này.

4. Nguyên đơn rút đơn kiện

-Sơ thẩm: không cần có sự đồng ý của bị đơn, đình chỉ xét xử vụ án

-Phúc thẩm: phụ thuộc vào vị đơn có đồng ý hay không, có kiện ngược lại không

5. Hậu quả của đình chỉ xét xử

-Sơ thẩm: chấm dứt toàn bộ vụ án

-Phúc thẩm: trường hợp cá nhân tổ chức không có người thừa kế thì chấm dứt toàn bộ vụ án, trường hợp rút đơn kháng cáo kháng nghị thì bản án quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực.
6. Hòa giải

-Sơ thẩm: tại phiên tòa thẩm phán hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau không, nếu thỏa thuận được thì công nhận sự thỏa thuận đó.

-Phúc thẩm: không có thủ tục hòa giải

7.Hỏi và tranh luận

-Sơ thẩm: hỏi và tranh luận những vấn đề liên quan đến vụ án

-Phúc thẩm: hỏi và tranh luận những vấn đề thuộc phạm vi kháng cáo, kháng nghị

8.Hiệu lực

-Sơ thẩm: chưa có hiệu lực ngay

-Phúc thẩm: có hiệu lực pháp luật ngay

Trên đây là quan điểm của chúng tôi về sự khác biệt giữa sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự. Qua đó, phân biệt sơ thẩm và phúc thẩm rõ nét hơn. Quý bạn đọc, Quý khách hàng còn vướng mắc vui lòng liên hệ tổng đài của Pham Law 1900 6284 để được giải đáp chi tiết.

Công ty TNHH QH có vốn điều lệ là 80 tỷ đồng, do hai thành viên sáng lập trong đó ông Q góp 60 tỷ, chiếm 75% vốn điều lệ và ông H góp 20 tỷ đồng, chiếm 25% vốn điều lệ. Ông Q cho rằng ông đã góp 8 tỷ tiền mặt và còn góp 4 chiếc xe ô tô để phục vụ kinh doanh vận tải theo tuyến cố định. Do ông Q là giám đốc công ty có văn bản gửi Sở giao thông vận tải đề nghị ngừng hoạt động 4 xe ô tô trên vì lý do sửa chữa, nhưng thực tế xe không hư hỏng gì.

Ông H cho rằng việc làm của ông Q đã xâm phạm quyền lợi của mình nên đã khởi kiện yêu cầu:

- Công ty QH và ông Q trả lại phần vốn góp là 8 tỷ đồng (theo các phiếu thu có chữ ký của giám đốc và thủ quỹ công ty);

- Bồi thường thiệt hại 1,2 tỷ đồng ông H đã chi trả để được quyền khai thác 3 tuyến xe.

- Bồi thường thiệt hại do không khai thác được xe tính theo thời gian xe bị ngừng hoạt động là 212.400.000 đồng.

Bản án sơ thẩm quyết định không chấp nhận yêu cầu của ông P; ghi nhận sự tự nguyên của ông Q và ông H theo đó ông Q sẽ mua lại phần vốn góp của ông H tại công ty với giá 4 tỷ đồng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ông H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; Viện kiểm sát tỉnh kháng nghị đối với phần quyết định của bản án về yêu cầu hoàn trả lại 1,2 tỷ đồng cho nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H rút yêu cầu khởi kiện, kháng cáo đối với phần yêu cầu rút 8 tỷ đồng vốn góp khỏi công ty và phần yêu cầu trả lại 1,2 tỷ đồng. Bà H đồng ý với đề nghị này của ông P. Riêng phần bồi thường thiệt hại, ông P vẫn yêu cầu bồi thường 800.000.000 đồng do bị ngừng khai thác tuyến cố định đã đăng ký. Viện kiểm sát cũng rút toàn bộ kháng nghị.

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định:

Áp dụng ……; các điều 289 và 299 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015,

Sửa bản án sơ thẩm 15/2020/DS-ST của Tòa án nhân dân tỉnh Y.

Xử:

1. Hủy, đình chỉ giải quyết nội dung khởi kiện, nội dung kháng cáo của ông P đối với yêu cầu Công ty phải trả lại 1,2 tỷ đồng và phần rút vốn khỏi công ty;

2. Không chấp nhận yêu cầu của ông P về việc buộc Công ty PH và bà H phải bồi thường 800 triệu đồng.

3. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y.

Những vấn  đề đặt ra trong cách tuyên án

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong cách tuyên của Tòa án cấp phúc thẩm trong tình huống nêu trên.

- Quan điểm 1:

Trong vụ án này, nguyên đơn rút kháng cáo, đồng thời rút đơn khởi kiện đối với 02 yêu cầu và bị đơn đồng ý. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, quy định này áp dụng trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý thì mới đình chỉ giải quyết vụ án, tức là đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu cầu. Trong khi đó, ở trường hợp cụ thể này nguyên đơn chỉ rút đối với 2/3 yêu cầu, do vậy, có thể áp dụng tương tự và tuyên hủy một phần bản án sơ thẩm đối với phần rút kháng cáo, rút yêu cầu khởi kiện này và đình chỉ giải quyết 2 yêu cầu đã rút của nguyên đơn.

Đối với yêu cầu còn lại, do nguyên đơn vẫn giữ kháng cáo và số tiền yêu cầu trong kháng cáo khác so với yêu cầu tại cấp sơ thẩm nên cấp phúc thẩm có quyền sửa một phần bản án sơ thẩm đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại do không khai thác được xe.

- Quan điểm 2:

Quan điểm này cho rằng ở cấp phúc thẩm thì nguyên đơn chỉ được quyền rút đơn khởi kiện, tức là toàn bộ yêu cầu khởi kiện chứ không được rút một phần yêu cầu khởi kiện như tình huống vụ án nêu trên. Do vậy, trong trường hợp này Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sẽ áp dụng khoản 3 Điều 289 để đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo bị rút. Tòa án sẽ không giải quyết việc rút một phần yêu cầu khởi kiện tại cấp phúc thẩm.

Tuy nhiên, cách tiếp cận này hiện nay đang vướng với quy định tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, trong đó quy định: Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Ở vụ án này, bị đơn thay đổi yêu cầu của mình theo hướng rút 2/3 yêu cầu tại cấp phúc thẩm, tức là trong quá trình giải quyết vụ án mà không được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét là trái với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Quan điểm 3:

Trong trường hợp này Tòa án có quyền sửa bản án sơ thẩm và quyết định đình chỉ giải quyết đối với 2 yêu cầu do nguyên đơn đã rút yêu cầu khởi kiện. Đối với 1 yêu cầu còn lại, do nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, không rút kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xem xét giải quyết. Quan điểm này áp dụng quy định tại các điều 289 và 299 để quyết định. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, khoản 3 Điều 289 chỉ áp dụng đối với trường hợp rút một phần kháng cáo, nhưng không kèm theo việc rút một phần trong số các yêu cầu khởi kiện; Điều 299 thì lại chỉ áp dụng đối với việc rút toàn bộ các yêu cầu khởi kiện. Cả hai điều luật này không quy định về trường hợp rút kháng cáo và rút một phần yêu cầu khởi kiện tại cấp phúc thẩm, do vậy việc áp dụng điều luật như này cũng chưa thật chuẩn xác.

- Quan điểm 4:

Trong trường hợp này chỉ áp dụng khoản 2 Điều 308 và Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để sửa bản án sơ thẩm. Bởi lẽ Điều 309 không ràng buộc về lý do sửa bản án sơ thẩm vì cấp sơ thẩm áp dụng không đúng pháp luật, hay vì lý do có tình tiết mới làm thay đổi kết quả giải quyết của cấp sơ thẩm, hoặc phạm vi giải quyết yêu cầu của đương sự đã bị thay đổi.

Góc nhìn từ thực tiễn

Chúng tôi cho rằng, cách áp dụng điều luật của quan điểm thứ tư để sửa bản án sơ thẩm đã khắc phục được những vướng mắc về quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như đã trình bày ở các quan điểm nêu trên nên có thể chấp nhận được. Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được áp dụng khi cấp sơ thẩm “quyết định không đúng pháp luật” mặc dù “việc thu thập chứng cứ và chứng minh đã được thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định” (trường hợp 1); hoặc “quyết định không đúng pháp luật” do “việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ” (trường hợp 2). Trường hợp 1 là do nhận thức không đúng về pháp luật, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định không đúng pháp luật; nhưng ở trường hợp 2 là do thiếu các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho các tình tiết của vụ việc, dẫn đến việc Tòa án cấp sơ thẩm quyết định sai. Như vậy, nếu có tài liệu, tình tiết mới phát sinh (đương sự rút yêu cầu) ở cấp phúc thẩm và đủ cơ sở để Tòa án quyết định được thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể áp dụng khoản 2 Điều 309 để sửa bản án sơ thẩm.

Cũng theo quy định tại Điều 270 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thì “xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”. Do vậy, khi sửa bản án sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu của nguyên đơn khi nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, tương tự như ở cấp sơ thẩm.

Trong vụ án cụ thể này, Tòa án cấp phúc thẩm cũng tuyên theo cách tiếp cận thứ tư, nhưng lại áp dụng quy định tại các điều 289 và 299 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là chưa đúng. Bên cạnh đó, Tòa án cấp phúc thẩm cũng tuyên “hủy, đình chỉ giải quyết nội dung khởi kiện, nội dung kháng cáo của ông P đối với yêu cầu…” là không chính xác; không rõ “hủy” cái gì bởi lẽ không thể hủy việc giải quyết nội dung khởi kiện, nội dung kháng cáo được vì thẩm quyền này không được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.